1. Thành phần đoàn của EC:
- Tổng vụ các vấn đề về Biển và Thủy sản:
+ Ông Roberto Cesải – Trưởng Bộ phận IUU.
+ Bà Sara Perucho Martinez – Cán bộ chính sách IUU.
+ Ông Matthieu Serna – Cán bộ chính sách IUU.
- Đại diện phái Đoàn EU tại Việt Nam.
2. Thành phần làm việc của Việt Nam:
- Chủ trì, chỉ đạo: Ông Phùng Đức Tiến - Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
- Thành phần: Tổng cục Thủy sản, Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản, Cục Thú y, Tổng cục Hải quan, Cục Hàng hải Việt Nam, đại diện các đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng (Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng), Cục An ninh kinh tế (A04) – Bộ Công an.
3. Nội dung làm việc: Kết quả triển khai các khuyến nghị của EC về IUU, trong đó tập trung vào công tác kiểm soát tàu cá vi phạm vùng biển nước ngoài, theo dõi, kiểm soát hoạt động theo dõi, kiểm tra, giám sát tàu cá, quản lý đội tàu; truy xuất nguồn gốc thủy sản từ khai thác và thực thi pháp luật và các vấn đề khác có liên quan.
4. Kết quả làm việc
4.1. Làm việc tại tỉnh Khánh Hòa và các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa (từ ngày 20 đến ngày 25/10/2022)
a) Chương trình, nội dung làm việc:
- Ngày 20/10/2022:
+ Tại Ủy ban nhân dân tỉnh: Đoàn thanh tra EC làm việc với Ban chỉ đạo IUU của tỉnh về kết quả tổng thể triển khai các giải pháp chống khai thác IUU tại địa phương.
+ Tại Chi cục Thủy sản: Đoàn làm việc về công tác quản lý tàu cá (công tác đăng ký, cấp Giấy phép khai thác thủy sản, dữ liệu tàu cá địa phương trên Cơ sở dữ liệu nghề cá quốc gia VNFishbase, số lượng tàu cá lắp đặt thiết bị VMS, danh sách tàu cá chưa cấp Giấy phép, chưa lắp thiết bị VMS và giải pháp quản lý đối với nhóm tàu này…), xử phạt các hành vi vi phạm khai thác IUU (số vụ việc vi phạm đã được phát hiện, xử phạt; chuyên môn, nghiệp vụ xử lý; công tác phối hợp giữa các lực lượng chức năng có liên quan).
+ Tại Cảng quốc tế Cam Ranh tỉnh Khánh Hòa: Đoàn làm việc với Cục Thú y và các bên có liên quan về kết quả kiểm soát nguyên liệu hải sản vào Việt Nam theo quy định của Hiệp định PSMA, công tác thẩm định các hồ sơ và công tác thanh kiểm tra trên tàu.
- Ngày 21/10/2022:
+ Tại Trung tâm giám sát tàu cá của Chi cục Thủy sản: Đoàn kiểm tra công tác khai thác, sử dụng Hệ thống giám sát tàu cá theo phân cấp để quản lý hoạt động tàu cá của địa phương khi tham gia hoạt động khai thác hải sản (Số lượng tàu cá đã/chưa lắp đặt VMS, tàu cá mất kết nối VMS theo quy định, quy trình theo dõi, kiểm soát, xử lý hành vi vi phạm khai thác IUU qua VMS…); đặc biệt là việc sử dụng Hệ thống giám sát tàu cá phục vụ cho công tác truy xuất nguồn gốc thủy sản khai thác, cấp chứng nhận nguồn gốc thủy sản khai thác.
+ Tại Trung tâm quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản Vùng 3: Đoàn công tác làm việc với Cục quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản về quản lý nguyên liệu đầu vào và cấp chứng thư xuất khẩu.
+ Sau đó Đoàn làm việc với doang nghiệp T&H trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa; trong đó tập trung thanh, kiểm tra hồ sơ liên quan đến các lô hàng thủy sản xuất khẩu sang thị trường châu Âu và các nước, thị trường khác về nguồn gốc sản phẩm và quy trình kiểm soát đảm bảo không vi phạm IUU.
- Ngày 24/10/2022:
+ Tại Cảng cá Hòn Rớ:
(i) Đoàn công tác kiểm tra thực địa, nơi các tàu cá chưa được cấp Giấy phép khai thác thủy sản, tàu cá chưa lắp đặt thiết bị VMS đang neo đậu tại cảng đảm bảo được kiểm soát, quản lý, không tham gia hoạt động khai thác hải sản.
Ông Matthieu Serna – Cán bộ chính sách IUU kiểm tra quản lý tàu cá qua hệ thống trang thông tin của Tổng cục Thủy sản
(ii) Làm việc với Ban quản lý cảng cá và Văn phòng thanh tra, kiểm soát nghề cá tại cảng cá về quy trình, hồ sơ và kết quả kiểm soát tàu cá ra vào cảng, kiểm soát sản lượng thủy sản khai thác qua cảng, công tác xác nhận nguồn gốc sản phẩm thủy sản khai thác; trong đó tập trung kiểm tra công tác phối hợp giữa các lực lượng và việc sử dụng các công cụ như Hệ thống giám sát tàu cá, VNFishbase, Danh sách tàu cá IUU, tàu cá có nguy cơ vi phạm khai thác IUU để kiểm soát tàu cá ra vào cảng, giám sát sản lượng thủy sản khai thác qua cảng, đối khớp số liệu theo dõi, kiểm soát tàu cá ra vào cảng và sản lượng thủy sản khai thác qua cảng, đặc biệt là đối với loài cá ngừ và cá kiếm và công tác xác nhận nguồn gốc sản phẩm thủy sản khai thác cho các doanh nghiệp.
+ Đoàn kiểm tra hồ sơ doanh nghiệp xuất khẩu đi châu Âu (Hải Vương, Thịnh Hưng) trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa; trong đó tập trung thanh, kiểm tra hồ sơ liên quan đến các lô hàng thủy sản xuất khẩu sang thị trường châu Âu và các nước, thị trường khác về nguồn gốc sản phẩm và quy trình kiểm soát đảm bảo không vi phạm IUU.
- Ngày 25/10/2022:
+ Đoàn làm việc với Chi cục Thủy sản về công tác chứng nhận nguồn gốc thủy sản; trong đó tập trung vào quy trình thực hiện, các hồ sơ chứng nhận nguồn gốc thủy sản khai thác đối với các sản phẩm thủy sản khai thác được xác nhận tại cảng cá trên địa bàn và từ các cảng cá ở địa phương khác.
+ Công tác theo dõi, quản lý đối với nguyên liệu còn tồn tại các Doanh nghiệp đảm bảo được kiểm soát theo quy định.
b) Một số nhận xét, đánh giá
- Tại cơ quan, đơn vị (Cảng cá, Chi cục Thủy sản) của tỉnh Khánh Hòa qua việc kiểm tra công tác quản lý tàu cá, kiểm soát tàu cá ra vào cảng, kiểm soát sản lượng thủy sản khai thác qua cảng, công tác xác nhận, chứng nhận truy xuất nguồn gốc thủy sản khai thác thực hiện tốt trong việc cung cấp các hồ sơ, giải trình và chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ thực hiện trong việc khai thác, sử dụng Hệ thống giám sát tàu cá, VNFishbase… để thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Đối với việc thực hiện Hiệp định PSAM tại Cảng quốc tế Cam Ranh đã tổ chức triển khai thực hiện có nhiều tiến bộ so với trước.
- Qua kết quả kiểm tra tại 03 doanh nghiệp xuất khẩu trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa, việc cung cấp hồ sơ, giải trình liên quan đến các lô hàng xuất khẩu tại doanh nghiệp Hải Vương cơ bản đáp ứng yêu cầu; còn lại 02 doanh nghiệp (T&H, Thịnh Hưng) còn nhiều vấn đề nghi vấn cần điều tra, xác minh tính minh bạch, hợp pháp của các lô hàng xuất khẩu.
4.2. Làm việc tại Tổng cục Thủy sản (từ ngày 26 đến 27/10/2022)
a) Về khung pháp lý:
- Tổng cục Thủy sản trao đổi với Đoàn một số nội dung thay đổi chính liên quan đến khai thác IUU trong các dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 42/2019/NĐ-CP và dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 26/2019/NĐ-CP của Chính phủ.
- Đoàn nhận định khung pháp lý cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu quốc tế về chống khai thác IUU; tuy nhiên để tiếp tục siết chặt công tác quản lý, đảm bảo thực hiện các quy định chống khai thác IUU hiệu lực, hiệu quả Đoàn đã có một số khuyến nghị như sau:
+ Đưa vào quy định đối với tàu nhập khẩu đảm bảo nguồn gốc không vi phạm IUU; quy định việc chuyển đổi nghề trong hạn ngạch được giao theo hướng chỉ cho phép các nghề thân thiện với nguồn lợi, hệ sinh thái.
+ Tăng mức xử phạt vi phạm đối với hành vi nghiêm trọng để đảm bảo tính răn đe, đặc biệt mức phạt phải cao hơn nhiều lần so với lợi ích thu được từ hành vi vi phạm; xem xét quy định truy tố một số hành vi vi phạm nghiêm trọng, cần quy định xử phạt đối với hành vi đi ra ngoài ranh giới vùng biển.
b) Về quản lý đội tàu:
(i) Đoàn nhận định đội tàu của Việt Nam hiện nay vẫn còn lớn so với trữ lượng nguồn lợi thủy sản và đề nghị Việt Nam cần có giải pháp để giảm cường lực khai thác theo hướng giảm số lượng tàu cá, thời gian khai thác và sản lượng được phép khai thác… để phát triển nghề cá bền vững, có trách nhiệm và hội nhập quốc tế.
Phía Tổng cục Thủy sản đã tiếp thu, giải trình với Đoàn như sau:
- Việt Nam đã có đánh giá nguồn lợi năm 2021 theo nhóm sinh thái (nổi, đáy), theo vùng làm cơ sở cho quy hoạch quản lý đội tàu phù hợp với nguồn lợi.
- Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển thủy sản tại Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 11/3/2021, phê duyệt Đề án “Phòng, chống khai thác IUU đến năm 2025” tại Quyết định số 1077/QĐ-TTg ngày 14/9/2022 và Quyết định số 1090/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình quốc gia phát triển bền vững nghề khai thác thủy sản. Theo đó Việt Nam sẽ thành lập các khu bảo tồn biển và khu bảo vệ nguồn lợi; giảm dần số lượng hạn ngạch khai thác (mục tiêu đến 2025 giảm 10% so với năm 2020).
- Việt Nam đang xây dựng kế hoạch quốc gia quản lý nghề khai thác cá ngừ đại dương đến năm 2030 và phối hợp với WWF và WCPFC xây dựng chiến lược khai thác cá ngừ Việt Nam khi WCPFC xây dựng chiến lược khai thác cá ngừ (vây vàng, mắt to, vằn) cho khu vực biển Đông Á.
Phía Đoàn đề nghị Việt Nam cập nhật các văn bản liên quan đến thực hiện chiến lược quản lý đội tàu phù hợp nguồn lợi và có biện pháp quản lý đối với khối tàu chưa lắp VMS, không có Giấy phép khai thác và khối tàu đã xóa đăng ký để đảm bảo nhóm tàu này không tham gia hoạt động khai thác trên biển.
(ii) Qua kiểm tra Hệ thống giám sát tàu cá tại Trung ương, Đoàn đã kiểm tra công tác khai thác, sử dụng Hệ thống giám sát tàu cá; cơ sở dữ liệu, hồ sơ lưu trữ liên quan đến xử lý tàu cá mất kết nối trên biển, tàu cá vượt ranh giới đối với nhóm tàu cá từ 24 mét trở lên; Đoàn đưa ra một số khuyến nghị:
- Công tác xử lý vi phạm qua VMS tại địa phương khi nhận được thông báo từ Trung ương theo đánh giá từ Đoàn là rất yếu kém, chưa có cơ chế xử lý để buộc địa phương phản hồi kết quả xử lý các vụ việc.
- Đoàn đề nghị cần xây dựng cơ chế xử lý đủ hiệu quả để đảm bảo thực hiện việc quản lý tàu cá hoạt động trên biển qua VMS; cân nhắc năng lực của Trung ương trong việc thực hiện đề xuất sửa đổi hiện nay đối với quy định Trung ương quản lý toàn bộ khối tàu từ 15 mét trở lên qua Hệ thống VMS.
c) Công tác xác nhận, chứng nhận nguồn gốc thủy sản từ khai thác:
- Phía Đoàn khuyến nghị đối với sản phẩm thủy sản khai thác nhập khẩu vào Việt Nam bằng tàu container cần phải xây dựng quy trình để kiểm soát nguồn gốc của sản phẩm. Tại các doanh nghiệp phải có quy trình kiểm soát nguyên liệu thô nhập vào (bao gồm sản phẩm trong nước và nhập khẩu) đảm bảo doanh nghiệp không trộn lẫn hai loại nguyên liệu này khi xuất khẩu sang EU.
- Đối với mẫu chứng thư khai thác (tại ô số 5, 6 theo mẫu) đảm bảo phải có chữ ký xác nhận của chủ tàu/thuyền trưởng/người đứng tên trên giấy phép khai thác; đây là quy định bắt buộc của châu Âu.
- Đoàn đề xuất xây dựng hệ thống tại Trung ương để theo dõi, giám sát công tác xác nhận, chứng nhận thủy sản từ khai thác và thực hiện truy xuất nguồn gốc tại địa phương trên nền tảng điện tử.
d) Về thực thi pháp luật:
Đoàn tiếp tục nhắc lại các khuyến nghị đã đưa ra năm 2019 về:
- Chế tài xử lý phải đủ nhanh, đủ sức răn đe và hiệu quả; đặc biệt mức phạt phải cao hơn nhiều lần so với lợi ích thu được từ hành vi vi phạm; cân nhắc xem xét quy định truy tố một số hành vi vi phạm nghiêm trọng hoặc lặp đi lặp lại nhiều lần; cần quy định xử phạt đối với hành vi tàu cá đi ra ngoài ranh giới vùng biển.
- Đoàn tiếp tục khẳng định nếu còn tàu cá vi phạm vùng biển nước ngoài thì không thể gỡ cảnh báo “Thẻ vàng” và khuyến nghị phải quy định việc tàu cá ra ngoài ranh giới vùng biển Việt Nam mà không được phép là hành vi vi phạm và phải có chế tài xử lý (không cần phải mất thời gian điều tra xem tàu có hoạt động khai thác ở vùng biển nước ngoài hay không).
- Đoàn đề xuất không nên coi biện pháp cảnh cáo và yêu cầu cam kết không vi phạm khai thác IUU là một chế tài xử lý mà khi tàu đã vi phạm khai thác IUU thì phải được xử lý nghiêm theo quy định.
- Có cơ chế giám sát thực thi pháp luật của Trung ương đối với địa phương trong việc thực thi, xử lý các hành vi khai thác IUU; trong đó xem xét có quy định xử lý trách nhiệm đối với tổ chức, cá nhân tại địa phương không thực hiện hoặc chậm trễ trong việc thực hiện các chế tài xử lý đối với các hành vi khai thác IUU.
- Đối với danh sách tàu cá IUU và tàu cá nguy cơ cao vi phạm khai thác IUU cần rà soát, điều chỉnh lại; cụ thể:
+ Chỉ đưa vào danh sách IUU đối với những tàu cá đã thực hiện hành vi vi phạm và bị xử phạt nhưng chưa chấp hành xong quyết định xử phạt vi phạm hành chính và xem xét đưa những nhóm tàu vi phạm hành vi khai thác IUU trong nước nhưng chưa chấp hành xong quyết định xử phạt vào danh sách IUU.
+ Rà soát lại danh sách tàu cá nguy cơ cao đảm bảo phù hợp để theo dõi, kiểm soát là những tàu đã vi phạm và chấp hành xong hình thức xử lý.
5. Đánh giá chung
Đoàn Thanh tra của EC đã có một số đánh giá sơ bộ cụ thể như sau:
a) Mặt đạt được:
- Tiếp tục ghi nhận quyết tâm chính trị của Việt Nam về chống khai thác IUU, đặc biệt là sự quan tâm, chỉ đạo quyết liệt của Lãnh đạo Chính phủ.
- Tình hình chống khai thác IUU tại Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực hơn so với lần thanh tra thực tế vào năm 2019.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã cung cấp đầy đủ báo cáo tiến độ và các tài liệu liên quan, đảm bảo tính minh bạch.
- Tỉnh Khánh Hòa (địa phương Đoàn thanh tra trực tiếp) cơ bản thực hiện tốt nhiệm vụ chống khai thác IUU, đáp ứng đầu đủ các yêu cầu phục vụ cho công tác thanh tra của Đoàn (Hồ sơ sổ sách ghi chép, lưu trữ, ứng dụng công nghệ thông tin để theo dõi, tổng hợp truy xuất kịp thời; cán bộ thực hiện nắm vững chuyên môn, nghiệp vụ).
- Thực hiện việc kiểm soát sản phẩm thủy sản nhập khẩu theo quy định của Hiệp định về Biện pháp quốc gia có cảng (PSMA) về tổng thể đã có sự cải thiện tốt hơn so với trước.
- Công tác quản lý đội tàu, lắp đặt thiết bị giám sát hành trình trên tàu cá đã có sự chuyển biến tích cực.
b) Tồn tại, hạn chế:
- Tiếp tục để xảy ra tình trạng tàu cá Việt Nam vi phạm khai thác hải sản ở vùng biển nước ngoài (trong năm 2022 tính đến thời thanh tra có 73 tàu vi phạm bị nước ngoài bắt giữ, xử lý), sẽ không gỡ cảnh báo “Thẻ vàng” nếu tình trạng này tiếp tục xảy ra.
- Hồ sơ các lô hàng xuất khẩu tại hai doanh nghiệp (T&H, Thịnh Hưng) nghi vấn gian lận, chưa minh bạch và đảm bảo tính hợp pháp.
- Thực hiện quy định của Hiệp định PSMA vẫn còn hạn chế trong việc kiểm soát, thẩm tra, đối chiếu thông tin đối với tàu khai thác của nước ngoài qua VMS, AIS, chưa đối chiếu ngẫu nhiên Giấy phép khai thác với quốc gia tàu treo cờ và các nước khác có liên quan, chưa chia sẻ kết quả kiểm tra với nước tàu treo cờ và các bên có liên quan. Chưa kiểm soát được sản phẩm thủy sản khai thác nhập khẩu vào Việt Nam bằng tàu container, hiện chưa chứng minh được kiểm soát sản phẩm thủy sản khai thác nhập khẩu để xuất khẩu sang thị trường khác ngoài châu Âu dẫn tới rủi ro có sản phẩm IUU được nhập khẩu vào Việt Nam và xảy ra tình trạng nguyên liệu thô trong nước và nước ngoài được trộn lẫn để xuất khẩu tại các doanh nghiệp được kiểm tra.
- Khung pháp lý cần tiếp tục rà soát, điều chỉnh để tăng cường hiệu lực hiệu quả, siết chặt công tác quản lý chống khai thác IUU đảm bảo mức phạt đối với các hành vi vi phạm nghiêm trọng phải cao hơn gấp nhiều lần so với lợi ích thu được từ hành vi vi phạm, kiểm soát chặt chẽ quy định đối với tàu nhập khẩu từ nước ngoài đảm bảo không vi phạm IUU (qua kiểm tra doanh nghiệp có 02 tàu cá được nhập khẩu có nghi ngờ vi phạm IUU, do đó cần phải kiểm soát, làm rõ nguồn gốc 02 tàu này trước khi được phép hoạt động).
- Công tác thực thi pháp luật, xử phạt các hành vi khai thác IUU tại địa phương còn rất yếu kém; đặc biệt là hành vi vi phạm mất kết nối VMS khi hoạt động khai thác trên biển rất nhiều nhưng kết quả điều tra, xử lý rất ít.
- Chưa cân bằng giữa cường lực khai thác và nguồn lợi thủy sản.
6. Kiến nghị, đề xuất
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kiến nghị Phó Thủ tướng chỉ đạo:
- Điều tra, xử phạt nghiêm các trường hợp vi phạm khai thác hải sản ở vùng biển nước ngoài; gắn trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp tại địa phương để xảy ra tình trạng vi phạm. Tiếp tục tăng cường công tác tuần tra, kiểm tra, kiểm soát trên các vùng biển để ngăn chặn, xử lý tàu cá vi phạm vùng biển nước ngoài.
- Chủ tịch UBND các tỉnh chỉ đạo các cơ quan, đơn vị chức năng rà soát, kiểm tra, xử lý các doanh nghiệp trên địa bàn nếu để xảy ra vi phạm liên quan đến các lô hàng xuất khẩu vi phạm IUU.
- Tăng cường công tác phối hợp giữa các Bộ và địa phương trong việc kiểm soát sản phẩm thủy sản nhập khẩu; đặc biệt Bộ Tài chính (Tổng cục Hải quan) có giải pháp, tăng cường nguồn lực để kiểm soát sản phẩm thủy sản nhập khẩu vào Việt nam bằng Container đảm bảo không vi phạm IUU.
- Chỉ đạo các lực lượng chức năng của các Bộ và địa phương tổ chức triển khai đồng bộ công tác thực thi pháp luật trong việc xử phạt các hành vi khai thác IUU đảm bảo áp dụng thống nhất giữa các địa phương, không để xảy ra trường hợp vi phạm mà không bị xử lý; đối với các tổ chức, cá nhân thực thi pháp luật không đầy đủ, hiệu quả cần phải có chế tài xử lý theo quy định. Giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn theo dõi, kiểm soát việc thực thi pháp luật về chống khai thác IUU thống nhất từ Trung ương đến địa phương.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khẩn trương rà soát, sửa đổi, bổ sung khung pháp lý đảm bảo phù hợp với tình hình thực tế chống khai thác IUU để siết chặt công tác quản lý, đảm bảo hiệu lực hiệu quả theo khuyến nghị của EC.
- Tăng cường công tác điều tra, đánh giá nguồn lợi đảm bảo phù hợp với cường lực khai thác để quản lý đội tàu khai thác, sản lượng khai thác bền vững.
Nguồn tin: Mai Thị Thao