BÁO CÁO Kết quả triển khai nhiệm vụ chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định tháng 11/2022

Chủ nhật - 20/11/2022 19:49 174 0
Thực hiện Công văn số 2316/BNN-TCTS ngày 15/4/2022 của Bộ Nông nghiệp và PTNT, Công văn số 2032/UBND-NN ngày 29/3/2022 của UBND tỉnh Nghệ An về việc báo cáo kết quả triển khai nhiệm vụ chống khai thác IUU.
Sở Nông nghiệp và PTNT Nghệ An (Cơ quan thường trực Ban chỉ đạo tỉnh Nghệ An về IUU) báo cáo kết quả triển khai chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định của tỉnh Nghệ An trong tháng 11/2022 (từ ngày 20/10 đến 17/11/2022) như sau:
BÁO CÁO Kết quả triển khai nhiệm vụ chống khai thác hải sản bất hợp pháp,  không báo cáo và không theo quy định tháng 11/2022
I. TÌNH HÌNH KHAI THÁC THỦY SẢN CỦA ĐỊA PHƯƠNG
1. Tổng quan chung
Nghệ An có chiều dài bờ biển trên 82 km, diện tích vùng biển 4.230 hải lý vuông, dọc bờ biển có 6 cửa lạch thuận lợi cho tàu thuyền ra vào cũng như neo đậu tránh trú ẩn. Với vị trí địa lý kinh tế - chính trị hết sức thuận lợi, vùng biển được xem là một cửa ngõ quan trọng, là “mặt tiền” không chỉ riêng của Nghệ An mà cả khu vực Bắc Trung Bộ, là cầu nối thực hiện các hoạt động giao lưu và hội nhập quốc tế. Nghệ An xác định phát triển vùng biển trở thành vùng kinh tế mũi nhọn, trong đó ưu tiên phát triển các ngành: dịch vụ cảng biển; dịch vụ du lịch biển; công nghiệp đóng và sữa chữa tàu thuyền; khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản.
Với những tiềm năng sẵn có, cùng các chính sách hỗ trợ, sự chỉ đạo quyết liệt từ Trung ương xuống địa phương và sự nỗ lực của người dân có thể nói trong những năm qua, kinh tế biển nói chung, kinh tế thủy sản nói riêng có những bước phát triển đáng ghi nhận. Cơ cấu kinh tế nội ngành tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, đến cuối năm 2021: Nông nghiệp 77,52%, lâm nghiệm 6,17%, ngư nghiệp: 16,31%. Tỷ trọng của ngành khai thác trong ngành thủy sản chiếm 63,64%.
2. Tàu cá, lao động khai thác thủy sản
Toàn tỉnh có 3.404 tàu thuyền khai thác thủy sản. Trong đó, tàu cá thuộc diện phải đăng ký (có chiều dài lớn nhất từ 6m trở lên) đến ngày 17/11/2022 là 2.507 chiếc.
Nghề khai thác hải sản khá đa dạng, với nhiều loại ngư lưới cụ, tập trung chủ yếu vào 07 nhóm nghề. Trong tổng số 2.507 chiếc tàu cá thuộc diện phải đăng ký thì nghề lưới Kéo với 697 tàu (chiếm 27,80% tổng số), nghề lưới Vây với 160 tàu (chiếm 6,38% tổng số), nghề lưới Rê với 829 tàu (chiếm 33,07% tổng số), nghề Câu với 90 tàu (chiếm 3,59% tổng số), nghề Chụp với 569 tàu (chiếm 22,69% tổng số), nghề dịch vụ hậu cần với 34 tàu (chiếm 1,36% tổng số) và nghề khác với 128 tàu (chiếm 5,11% tổng số). Cơ cấu các nghề khai thác từng bước ổn định về số lượng tàu và phát triển chiều sâu.
- Lao động khai thác thủy sản
Tổng số lao động khai thác hải sản toàn tỉnh: 16.868 người. Trong đó, số lao động khai thác vùng khơi là 8.612 người, số lao động khai thác vùng lộng là 3.116 người, số lao động khai thác vùng ven bờ là 5.140 người.
3. Sản lượng khai thác
- Tổng sản lượng khai thác thủy sản đến ngày 31/12/2021 đạt 199.890,4 tấn, bằng 107,85% so với cùng kỳ năm 2020, giá trị ước đạt 4.044,7 tỷ đồng. Trong đó, khai thác biển đạt 192.970,4 tấn, bằng 107,98% so với cùng kỳ năm trước; khai thác nội đồng đạt 6.920 tấn, bằng 104,19% so với cùng kỳ năm trước.
- Kế hoạch năm 2022: Sản lượng khai thác ước đạt 187.000 tấn, trong đó: khai thác biển ước đạt 182.000 tấn, khai thác nội đồng ước đạt 5.000.
- Sản lượng khai thác thủy sản trong tháng ước đạt 17.050 tấn, giá trị ước đạt 353 tỷ đồng; trong đó khai thác biển đạt 16.400 tấn, bằng 99,47% so với cùng kỳ năm trước; khai thác nội đồng đạt 650 tấn, bằng 102,85% so với cùng kỳ năm trước.
- Lũy kế đến 18/11/2022, sản lượng khai thác đạt 190.441 tấn, giá trị ước đạt 4375,6 tỷ đồng; trong đó khai thác biển đạt 183.811 tấn, bằng 101% so với kế hoạch năm, bằng 102,39% so với cùng kỳ năm trước; khai thác nội đồng đạt 6.630 tấn, bằng 132,6% so với kế hoạch năm, bằng 103,77% so với cùng kỳ năm trước.
4. Cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá
- Về cảng cá: đã có 04 cảng cá được Nhà nước đầu tư xây dựng (gồm cảng cá Quỳnh Phương, cảng cá Lạch Quèn, cảng cá Lạch Vạn và cảng cá Cửa Hội). Đến thời điểm hiện tại, cả 4 cảng cá trên đã được tỉnh Nghệ An công bố mở cảng, đều là cảng cá loại II. Trong số các cảng cá này, đã có 03 cảng cá được công bố là cảng cá chỉ định, có đủ hệ thống xác nhận nguồn gốc thủy sản từ khai thác.
- Về khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá: Nghệ An được quy hoạch 05 khu neo đậu tránh trú bão (KNĐTTB) với tổng sức chứa cho tàu cá vào tránh trú bão là 3.100 chiếc; trong đó có 01 KNĐTTB cấp vùng và 04 KNĐTTB cấp tỉnh.
Đến nay, cả 05 KNĐTTB cho tàu cá trên địa bàn tỉnh Nghệ An đều đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT công bố đủ điều kiện hoạt động với tổng sức chứa đạt 2.000 tàu thuyền các loại, bằng 65% công suất neo đậu so với quy hoạch.
II. KẾT QUẢ CHỐNG KHAI THÁC IUU CỦA ĐỊA PHƯƠNG
1. Chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh
Trong gần 5 năm qua, Tỉnh Ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An đã nỗ lực chỉ đạo thực hiện hàng loạt các biện pháp nhằm khắc phục cảnh báo ”Thẻ vàng” của EC và xem đây là nhiệm vụ quan trọng cũng như cơ hội để chấn chỉnh công tác quản lý ngành thủy sản tỉnh nhà.
- Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành 54 văn bản để chỉ đạo, điều hành công tác chống khai thác IUU, trong đó giao trách nhiệm cụ thể cho các sở, ban, ngành và UBND các huyện, thị ven biển, trong đó có 04 văn bản quy phạm pháp luật (02 Nghị quyết và 02 quyết định).
- Chỉ đạo quyết liệt việc khắc phục các tồn tại, hạn chế sau khi có Kết luận của Đoàn kiểm tra Bộ Nông nghiệp và PTNT về công tác chống khai thác IUU tại Nghệ An.
- Ban hành cơ chế, chính sách để nâng cao hiệu quả trong công tác chống khai thác IUU như: Hỗ trợ kinh phí cho ngư dân lắp đặt, cước phí hoạt động thiết bị giám sát hành trình tàu cá, bố trí nguồn lực (trang thiết bị, nhân lực tại các cảng cá).
 (Chi tiết các văn bản chỉ đạo tại Phụ lục 1 kèm theo)
2. Hoạt động của Ban chỉ đạo tỉnh Nghệ An về IUU
Ban chỉ đạo tỉnh về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (gọi tắt là Ban Chỉ đạo IUU) được thành lập tại Quyết định số 3787/QĐ-UBND ngày 26/9/2019 của UBND tỉnh Nghệ An; hoạt động theo Quy chế được ban hành tại Quyết định số 128/QĐ-UBND ngày 13/01/2020 của UBND tỉnh Nghệ An. Qua thời gian hoạt động, đến nay Ban chỉ đạo IUU tỉnh được kiện toàn, tại Quyết định số số 3100/QĐ-UBND ngày 23/8/2021.
Thực hiện Quy chế hoạt động, trong 05 năm qua Ban chỉ đạo IUU đã:
+ Tổ chức, tham gia 12 cuộc họp sơ kết, đánh giá kết quả thực hiện. Kết luận mỗi cuộc họp được UBND tỉnh kịp thời ban hành thông báo để các sở, ban, ngành, địa phương và đơn vị liên quan quán triệt, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện.
+ Sở Nông nghiệp và PTNT (cơ quan thường trực Ban chỉ đạo) hàng năm tổ chức các Đoàn công tác kiểm tra địa phương (11 đoàn) và kịp thời ban hành văn bản chỉ đạo, đôn đốc, hướng dẫn tổ chức triển khai Luật thủy sản, khắc phục các tồn tại, hạn chế trong thực hiện nhiệm vụ chống khai thác IUU.
+ Chỉ đạo năm huyện/thị xã ven biển thành lập Ban Chỉ đạo về IUU để chỉ đạo công tác IUU tại địa phương được tập trung và sâu sát hơn.
- Công tác tổ chức, bộ máy và phân công nhiệm vụ chống khai thác IUU trong những năm qua được UBND tỉnh Nghệ An thực hiện nghiêm túc, giao nhiệm vụ cụ thể cho các Sở Ban Ngành liên quan. Ngoài hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về thủy sản còn có Ban chỉ đạo chống khai thác IUU cấp tỉnh, cấp huyện; Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh; Tổ liên ngành thanh tra, kiểm soát nghề cá tại các cảng cá… ngoài ra còn có sự tham gia phối hợp của các Sở, ban, ngành như Công an tỉnh, Sở Ngoại vụ, Sở Thông tin và Truyền thông.
3. Kết quả thực hiện
3.1. Công tác quản lý tàu cá
- Việc công bố hạn ngạch giấy phép khai thác vùng lộng, ven bờ và ban hành tiêu chí đặc thù của địa phương; hạn ngạch giấy phép vùng khơi được giao được thực hiện tại Quyết định số 5423/QĐ-UBND ngày 27/12/2019 về việc công bố hạn ngạch Giấy phép khai thác thủy sản trên biển tại vùng lộng và vùng ven bờ của tỉnh Nghệ An và Quyết định số 18/2020/QĐ-UBND ban hành Quy định tiêu chí đặc thù và quy trình xét duyệt hồ sơ đề nghị cấp văn bản chấp thuận đóng mới, cải hoán, thuê, mua tàu cá hoạt động trên biển thuộc địa bàn tỉnh Nghệ An (đã được sửa đổi, bổ sung tại Quyết định số 39/2022/QĐ-UBND ngày 08/8/2022).
Trên cơ sở hạn ngạch được phân bổ, Nghệ An được cấp 1.242 Giấy phép khai thác thủy sản ở vùng khơi; 654 Giấy phép khai thác vùng lộng; 1.953 Giấy phép khai thác thủy sản vùng ven bờ với các nghề sau: lưới kéo, lưới rê, lưới vây, câu, chụp, hậu cần đánh bắt nguồn lợi thủy sản, lồng bẫy và nghề khác.
- Kết quả thực hiện đăng ký tàu cá, đăng kiểm; đánh dấu tàu cá; cấp giấy chứng nhận an toàn thực phẩm:
+ Công tác đăng ký tàu cá: Tổng số giấy chứng nhận đăng ký tàu cá đã cấp trong tháng 11/2022 (đến ngày 17/11/2022) là 55 chiếc. Trong đó: loại Lmax 6-<12m: 05 chiếc, loại Lmax 12-<15m: 06 chiếc, loại Lmax 15-<24m: 40 chiếc và loại 15-<24m: 05 chiếc. Bên cạnh đó, đã xoá đăng ký 12 chiếc tàu cá do bán ngoại tỉnh (loại 15-<24m: 08 chiếc, loại 24-<30m: 04 chiếc). Đến nay, tổng số tàu cá toàn tỉnh đã được cấp đăng ký 2.507 chiếc, bằng 100%.
+ Công tác đăng kiểm tàu cá: số tàu còn hạn đăng kiểm là 1.187/1.692 chiếc thuộc diện phải đăng kiểm, đạt 70,15% số tàu ≥ 12m, đạt 100% số tàu đang hoạt động khai thác.  
+ Công tác đánh dấu tàu cá: Hiện tại công tác đánh dấu tàu cá tại các địa phương đã được thực hiện đảm bảo theo đúng quy định
+ Cấp giấy chứng nhận an toàn thực phẩm tàu cá: Tính đến ngày 17/11/2022 tổng số tàu cá đã cấp giấy chứng nhận ATTP là: 1.110/1.151 tàu, đạt 96,44% so với tổng số tàu cá phải cấp.
- Kết quả thực hiện quản lý, cấp giấy phép khai thác thủy sản: số tàu đã cấp phép đang còn hạn là 2.196/2.507 tàu thuộc diện phải cấp phép, đạt 87,59% số tàu ≥ 6m, đạt 100% số tàu đang hoạt động khai thác. 
(Danh sách tàu cá chưa cấp phép tại phụ lục 2 kèm theo).
- Kết quả thực hiện cập nhật dữ liệu tàu cá trên VN-Fishbase: Việc cập nhật dữ liệu tàu cá lên phần mềm VNFishbase được thực hiện thường xuyên và đầy đủ. Tổng số tàu cá đã cập nhật lên phần mềm đạt 100% tổng số tàu cá đã đăng ký.
3.2. Kết quả lắp đặt thiết bị giám sát hành trình tàu cá
- Tính đến ngày 16/11/2022, tỉnh Nghệ An có 1.125/1.151 tàu cá đã lắp đặt thiết bị GSHT, đạt tỷ lệ 97,74%, trong đó: tàu cá có chiều dài lớn nhất từ 15-24m: 904/926, đạt 97,62%; Tàu cá có chiều dài lớn nhất từ 24m trở lên: 221/225, đạt 98,22%. Tuy nhiên trên Hệ thống Giám sát tàu cá, số lượng tàu cá đã lắp đặt VMS của tỉnh Nghệ An là 1.086 chiếc, đạt 94,35%.
- Số tàu cá chưa thực hiện việc lắp đặt VMS: 26 chiếc, chiếm tỷ lệ 2,26%;
 (Danh sách các tàu cá chưa lắp thiết bị VMS tại Phụ lục 3 kèm theo)
3.3. Về theo dõi, kiểm tra, kiểm soát hoạt động tàu cá thông qua VMS
- Công tác tổ chức trực theo dõi, giám sát hoạt động tàu cá:
Tổ chức trực ban 24/24 giờ tại Trạm bờ - Chi cục Thủy sản nhằm theo dõi, thông tin cho chủ tàu cá về việc tàu mất kết nối VMS, vượt ranh giới trên biển, yêu cầu thực hiện đúng quy định pháp luật; tổng hợp, lập danh sách và trao đổi thông tin giữa các lực lượng chức năng để phối hợp, xử lý.
- Kết quả theo dõi, xử lý:
* Số liệu tàu cá mất kết nối VMS trên biển:
Trong tháng 11/2022, số tàu cá mất kết nối VMS trên biển là 1.343 lượt tàu, gồm: tàu cá từ 15m - 24m: 905 lượt tàu; tàu cá từ 24m trở lên: 438 lượt tàu. Tổng số tàu cá mất kết nối VMS trên biển năm 2022 (tính đến ngày 16/11/2022) là: 10.914 lượt tàu, gồm tàu cá từ 15m - 24m: 6.036 lượt tàu và tàu cá từ 24m trở lên: 4.878 lượt tàu
Nguyên nhân: Thiết bị VMS bị hỏng, hoạt động chập chờn; nguồn điện cung cấp cho thiết bị VMS hoạt động bị hỏng, một số tàu cá khi gặp thời tiết xấu trên biển nên chủ tàu ngắt hệ thống điện để đảm bảo an toàn, chống cháy nổ...
Đối với các tàu cá mất kết nối, Chi cục Thủy sản đã phát thông báo qua kênh đàm thoại 7918.KHz để tuyên truyền, nhắc nhở, yêu cầu các tàu cá kiểm tra lại thiết bị, duy trì hoạt động thiết bị Giám sát hành trình 24/24 từ khi rời cảng đến khi cập cảng theo đúng quy định.
*  Số liệu tàu cá vượt qua đường ranh giới cho phép trên biển:
Trong tháng 11/2022, số tàu cá vượt qua đường ranh giới cho phép trên biển là 10 lượt tàu, gồm: tàu cá có chiều dài lớn nhất từ 15m - 24m: 05 lượt tàu; tàu cá có chiều dài lớn nhất từ 24m trở lên: 05 lượt tàu. Tổng số tàu cá vượt qua đường ranh giới cho phép trên biển năm 2022 tính đến ngày 16/11/2022 là: 239 lượt tàu.
Nguyên nhân: Do ngư trường khai thác xa nên các tàu cá chạy tắt qua đường ranh giới để tiết kiệm nhiên liệu, một số tàu cá bị hỏng thiết bị định vị, hỏng máy thả trôi tàu nên bị trôi dạt qua đường ranh giới cho phép trên biển...
Đối với các tàu cá mất kết nối VMS và vượt qua đường ranh giới cho phép trên biển Chi cục Thủy sản đã phát thông báo qua kênh đàm thoại 7918.KHz để tuyên truyền, nhắc nhở, yêu cầu các tàu cá kiểm tra lại thiết bị, duy trì hoạt động VMS 24/24 từ khi rời cảng đến khi cập cảng; không vi phạm vùng biển nước ngoài và chấp hành các quy định khác về hoạt động khai thác hải sản.
* Số liệu tàu mất tín hiệu VMS quá 10 ngày trên biển:
Trong tháng 11/2022, số tàu cá mất kết nối VMS quá 10 ngày trên biển là 26 lượt tàu, gồm: tàu cá từ 15m - 24m: 21 lượt tàu; tàu cá từ 24m trở lên: 05 lượt tàu. Tổng số tàu cá mất kết nối VMS quá 10 ngày trên biển 11 tháng năm 2022 (tính đến ngày 16/11/2022) là: 280 lượt tàu, gồm: tàu cá từ 15m - 24m: 132 lượt tàu và tàu cá từ 24m trở lên: 148 lượt tàu.
Nguyên nhân: Thiết bị VMS bị hỏng, hệ thống điện cung cấp cho thiết bị VMS hoạt động bị hỏng, tàu về cảng kết thúc chuyến biển nên chủ tàu tắt nguồn thiết bị, hết hạn cước thuê bao....
Số tàu cá mất kết nối VMS quá 10 ngày đã xử lý: 255/280 lượt tàu, chưa xử lý: 25 lượt tàu.
Biện pháp khắc phục và hình thức xử lý đối với các tàu cá mất kết nối VMS quá 10 ngày trên biển: Bước đầu, các cơ quan, đơn vị đã có những biện pháp xử lý: (i) Lập biên bản nhắc nhở; yêu cầu chủ tàu khắc phục, cam kết duy trì hoạt động VMS theo đúng quy định và chấp hành các quy định khác về hoạt động khai thác hải sản; (ii) Yêu cầu cảng cá không cho tàu cá bốc dỡ thủy sản, xuất lạch khi chưa có biên bản giải trình, làm rõ lý do mất kết nối, chưa nạp cước thuê bao duy trì hoạt động VMS theo quy định; (iii) Yêu cầu các đơn vị cung cấp VMS kiểm tra tình trạng hoạt động của thiết bị VMS để làm rõ nguyên nhân tàu cá mất kết nối.
 (Danh sách chi tiết tại các Phụ lục 4, 5 và 6 kèm theo)
3.4. Về kiểm tra, giám sát tàu cá và sản lượng bốc dỡ qua cảng
- Công tác tổ chức kiểm tra, giám sát của BQL cảng cá: Ban Quản lý cảng cá Nghệ An có 04 cảng cá gồm: Cảng cá Cửa Hội, Lạch Vạn, Lạch Quèn, Quỳnh Phương. Tổng số cán bộ, công nhân viên chức toàn Ban Quản lý cảng cá là 30 người, nhân lực tại mỗi cảng từ 5-7 người/cảng. Tại 04 cảng cá được đầu tư các trang thiết bị (hệ thống camera, điện thoại, máy tính, bộ đàm.....) để thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát tàu cá qua cảng. Công tác theo dõi, kiểm tra, kiểm soát hoạt động tàu cá tại cảng cá về cơ bản đã được tổ chức triển khai theo quy định tại Thông tư số 21/2018/TT-BNNPTNT và Thông tư số 01/2022/TT-BNNPTNT.
- Kết quả thực hiện kiểm tra, giám sát tại cảng cá:
+ Số lượt tàu thông báo cập cảng tháng 11/2022 là 342 lượt; số lượt tàu được giám sát là 342 lượt tàu với sản lượng được giám sát là 572,49 tấn; tỷ lệ sản lượng đã giám sát/sản lượng khai thác địa phương là 572,49/17.050 tấn (đạt tỷ lệ 3,36%).
+  Lũy kế 11 tháng năm 2022: Số lượt tàu thông báo cập cảng là 2.890 lượt; số lượt tàu được giám sát là 2.797 lượt với sản lượng được giám sát là 4.442,01 tấn; tỷ lệ sản lượng đã giám sát/sản lượng khai thác địa phương là 4.442,01/190.441 tấn (đạt tỷ lệ 2,33%).
+ Việc ghi, nộp nhật ký dần được cải thiện hơn, ngư dân đã chủ động ghi nhật ký khai thác và nộp cho cảng cá khá kịp thời, tuy nhiên chất lượng nhật ký khai thác chưa cao (vẫn còn tình trạng ghi số mẻ khai thác ít, số lượng không chính xác, thiếu thông tin,... ). Cảng cá đã tiếp nhận và kiểm tra các thông tin trong nhật ký khai thác, đảm bảo nhật ký khai thác đầy đủ theo đúng quy định. Trong tháng 11/2022 đã thu được 385 nhật ký KTTS; 11 tháng năm 2022 đã thu 2.919 nhật ký KTTS.
- Công tác tổ chức kiểm tra, xử phạt VPHC của văn phòng IUU tại cảng:
Hiện có 04 Tổ công tác Liên ngành được bố trí tại 04 cảng cá, mỗi tổ có 5-7 người gồm các lực lượng: Chi cục Thủy sản, Bộ đội Biên phòng, Cảng cá. Các Tổ công tác Liên ngành thực hiện nhiệm vụ theo Kế hoạch Thanh tra, kiểm soát nghề cá do UBND tỉnh ban hành, Thông tư số 21/2018/ TT-BNNPTNT, TT01/2022/TT-BNNPTNT.
* Kết quả kiểm tra của các Tổ:
+ Tháng 11/2022: Kiểm tra 220 lượt tàu rời cảng. Kiểm tra 212 lượt tàu cá cập cảng với tổng sản lượng thủy sản bốc dỡ qua cảng cá là 532,05 tấn.
+ Lũy kế 11 tháng năm 2022: Kiểm tra 1.980 lượt tàu rời cảng (cảng cá Lạch Quèn: 702 lượt tàu; Lạch Vạn: 896 lượt tàu; Cửa Hội: 62 lượt tàu; Quỳnh Phương: 320 lượt tàu). Kiểm tra 1.986 lượt tàu cá cập cảng với tổng sản lượng thủy sản bốc dỡ qua cảng cá là 3.904,41 tấn.
 * Về xử phạt: Đối với các tàu cá mất kết nối GSHT, sau khi có Thông báo của Chi cục Thủy sản, các Tổ công tác Liên ngành đã phối hợp với Đồn Biên phòng, Chính quyền địa phương làm việc với các chủ tàu cá để xác định nguyên nhân và có biện pháp nhắc nhở và cam kết không tái phạm.
3.5. Về xác nhận, chứng nhận nguồn gốc thủy sản khai thác
Đến nay, Cảng cá và Chi cục Thủy sản chưa nhận được hồ sơ của các tổ chức, cá nhân nào yêu cầu biên nhận, cấp giấy xác nhận nguồn gốc nguyên liệu thuỷ sản, chứng nhận nguồn gốc nguyên liệu thủy sản.
3.6. Về thực thi pháp luật, kiểm tra, xử lý vi phạm
- Công tác tổ chức thực hiện: Việc thực thi pháp luật, kiểm tra, xử lý vi phạm trong lĩnh vực khai thác thủy sản được thực hiện chủ yếu bởi Sở Nông nghiệp và PTNT (trực tiếp là Chi cục Thủy sản) và Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh Nghệ An.
Tại Chi cục Thủy sản, phòng Thanh tra, pháp chế và 03 Trạm Thủy sản là bộ phận trực tiếp chủ trì thực hiện chức năng, nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra chuyên ngành thủy sản. Số lượng cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành, Kiểm ngư: 17 người . (Trong đó 02 tàu công vụ bố trí 11 người)
Để thực hiện nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát trên biển, Chi cục Thủy sản Nghệ An được trang bị 02 tàu Kiểm ngư: KN-688-NA (công suất 1.100cv), VN-93967-KN (công suất 580cv); 01 xuồng (cano) công suất 40cv và 03 xuồng công suất 60cv.
- Lập danh sách tàu cá vi phạm IUU; danh sách tàu cá có nguy cơ cao vi phạm IUU: định kỳ hàng tuần, hàng tháng lập thống kê, lập danh sách tàu cá vi phạm IUU, tàu cá có nguy cơ cao vi phạm IUU gửi Tổng cục Thủy sản và Sở Nông nghiệp & PTNT 28 tỉnh, thành phố ven biển.
- Kết quả ngăn chặn, chấm dứt tình trạng tàu cá Việt Nam vi phạm khai thác hải sản ở vùng biển nước ngoài:
Thực hiện Công văn số 8763/UBND-NC ngày 07/11/2022 của UBND tỉnh Nghệ An về việc tàu cá Việt Nam vi phạm vùng biển Trung Quốc, phía Đông Vịnh Bắc Bộ, Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh chủ trì, phối hợp với Sở Nông nghiệp và PTNT, Sở Ngoại vụ; UBND các huyện Quỳnh Lưu đang tiến hành điều tra, xác minh, hoàn chỉnh hồ sơ xử lý đối với 13 tàu cá của ngư dân huyện Quỳnh Lưu có hành vi vi phạm vùng biển nước ngoài theo thông báo của Bộ Tham mưu BĐBP. 
- Kết quả xử lý đối với các vi phạm về khai thác IUU:
+ Kết quả tháng 11/2022:
Chi cục Thủy sản xử phạt vi phạm hành chính 03 vụ/03 đối tượng/03 phương tiện với tổng số tiền xử phạt: 3,4 triệu đồng.
Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh xử phạt vi phạm hành chính 04 vụ/04 đối tượng/04 phương tiện với tổng số tiền xử phạt: 17 triệu đồng. Tang vật tịch thu: 01 bộ công cụ kích điện; 15m dây điện.
+ Lũy kế 11 tháng năm 2022:
Chi cục Thủy sản xử phạt vi phạm hành chính 68 vụ/68 đối tượng/67 phương tiện với tổng số tiền xử phạt: 217 triệu đồng. Tịch thu 3 bộ kích điện, 15m dây điện.
Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh xử phạt vi phạm hành chính 68 vụ/88 đối tượng/88 phương tiện với tổng số tiền xử phạt: 661 triệu đồng. Tịch thu: 18 bộ công cụ kích điện; 96m dây điện.
3.7. Công tác tập huấn, truyền thông về IUU
Tiếp tục thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đến các chủ tàu, ngư dân thực hiện tốt Luật Thủy sản năm 2017, các quy định về chống khai thác IUU và các quy định khác của pháp luật về thủy sản. Trong tháng, Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh phối hợp với Ban Chỉ đạo công tác Biên giới tỉnh, các sở, ngành có liên quan tổ chức tập huấn tuyên truyền nâng cao nhận thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo, chống khai thác IUU cho ngư dân được 5 buổi/450 lượt ngư dân tham gia; tuyên truyền được 35 buổi/317 lượt ngư dân; phát tờ rơi tuyên truyền cho 478 chủ tàu đi khai thác hải sản về các nội dung chống khai thác IUU, không xâm phạm vùng biển nước ngoài và các quy định về lắp đặt, duy trì thiết bị giám sát hành trình.
UBND các huyện, thị ven biển đã chỉ đạo UBND các xã/phường tổ chức tuyên truyền vận động đến tận từng Tổ đồng quản lý, Hợp tác xã, Tổ đội sản xuất và đến tận từng hộ dân về chống khai thác IUU.
III. VIỆC KHẮC PHỤC CÁC TỒN TẠI CỦA ĐỢT KIỂM TRA TRƯỚC
1. Các tồn tại, hạn chế
Tại Công văn số 8157/BNN-TCTS ngày 02/12/2021 về việc tiếp tục tập trung triển khai thực hiện quyết liệt hơn nữa các giải pháp chống khai thác IUU (qua đợt kiểm tra công tác IUU tại Nghệ An vào tháng 11/2021 của Thứ trưởng Phùng Đức Tiến); đã chỉ ra những tồn tại:
- Chưa hoàn thành lắp đặt thiết bị VMS theo quy định tại Nghị định số 26/2019/NĐ-CP của Chính phủ (tại thời điểm kiểm tra ghi nhận 965/1.182 tàu cá lắp đặt thiết bị VMS có tín hiệu trên hệ thống giám sát tàu cá; trong khi số liệu của tỉnh báo cáo là 1.129/1.182 tàu cá).
- Tình trạng tàu cá mất kết nối thiết bị VMS, đặc biệt là tàu cá mất kết nối trên 10 ngày vẫn xảy ra nhưng công tác xác minh, xử lý còn hạn chế (xảy ra trường hợp xác minh tàu mất kết nối có nguyên nhân nhưng chỉ sau 01 ngày đã xác nhận tàu đủ điều kiện để rời cảng).
 - Tại cảng cá được kiểm tra: (i) Công tác xử lý các hành vi khai thác IUU thực hiện còn hạn chế; (ii) Khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu để kiểm soát tàu cá tại các cảng cá trên phần mềm điện tử chưa được chú trọng, hiện tại việc ghi, chép, khai thác, lưu trữ chủ yếu được thực hiện thủ công, trên giấy; (iii) Chưa truy cập được cơ sở dữ liệu nghề cá quốc gia VNFishbase để phục vụ cho công tác kiểm tra, xử lý các hành vi khai thác IUU; (iv) Số tàu cá cập cảng bốc dỡ thủy sản rất thấp dẫn đến chưa kiểm soát được sản lượng từ khai thác; (v) Chưa đảm bảo kiểm soát theo quy định đối với tàu cá ngoài tỉnh cập cảng; (vi) Chưa theo dõi, kiểm soát, xử lý đối với tàu cá thông báo cập cảng nhưng sau đó tàu lại không cập cảng.


2. Kết quả khắc phục
- Đã đôn đốc quyết liệt việc thực hiện việc lắp đặt thiết bị VMS theo quy định, đến thời điểm báo cáo ghi nhận có 1.086/1.151 (đạt 94,35%) tàu cá lắp đặt thiết bị VMS có tín hiệu trên hệ thống giám sát tàu cá (tổng số tàu cá đã lắp đặt thiết bị VMS 1.125/1.151 chiếc, đạt tỷ lệ 97,74%).
- Đối với các trường hợp mất kết nối (đặc biệt là mất kết nối trên 10 ngày) UBND các xã/phường ven biển có tàu cá vi phạm đã phối hợp với các đơn vị liên quan như các Đồn Biên phòng tuyến biển, nhà cung cấp thiết bị kiểm tra, xác minh nguyên nhân và lập biên bản nhắc nhở đối với các chủ tàu cá đồng thời yêu cầu các chủ tàu cá phải ký cam kết khắc phục, duy trì VMS hoạt động theo đúng quy định.
- Việc khắc phục các hạn chế được chỉ ra tại cảng cá được kiểm tra:
(i) Công tác xử lý các hành vi khai thác IUU thực hiện còn hạn chế: Các cảng cá, Tổ công tác Liên ngành đã lập biên bản làm việc với các chủ tàu/thuyền trưởng có hành vi khai thác IUU; yêu cầu chủ tàu/thuyền trưởng viết bản tường trình và cam kết không tái phạm.
(ii) Khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu để kiểm soát tàu cá tại các cảng cá trên phần mềm điện tử chưa được chú trọng, hiện tại việc ghi, chép, khai thác, lưu trữ chủ yếu được thực hiện thủ công, trên giấy: Cảng cá, Tổ công tác Liên ngành đã sử dụng các phần mềm (VNFishbase, GSHT, Excel…) để khai thác dữ liệu, cập nhật hồ sơ, thực hiện thống kê, báo cáo đảm bảo kịp thời, chính xác hơn.
 (iii) Chưa truy cập được cơ sở dữ liệu nghề cá quốc gia VNFishbase để phục vụ cho công tác kiểm tra, xử lý các hành vi khai thác IUU: Cảng cá, Tổ công tác Liên ngành đã truy cập cơ sở dữ liệu VNFishbase, Hệ thống giám sát hành trình phục vụ cho công tác kiểm tra, giám sát tàu cá cập cảng cũng như đối chiếu kiểm tra thông tin trên nhật ký khai thác thủy sản.
 (iv) Số tàu cá cập cảng bốc dỡ thủy sản rất thấp dẫn đến chưa kiểm soát được sản lượng từ khai thác: Các cảng cá đã làm việc với chính quyền địa phương, các Đồn, Trạm biên phòng tuyến biển để tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn cho các chủ tàu/thuyền trưởng cập cảng theo quy định; tỷ lệ tàu cá cập cảng trên số tàu cá hoạt động khai thác tăng lên so với trước.
 (v) Chưa đảm bảo kiểm soát theo quy định đối với tàu cá ngoài tỉnh cập cảng: Ban quản lý cảng cá đã ban hành các quy trình theo dõi tàu cá rời cảng, cập cảng; giám sát sản lượng thủy sản khai thác bốc dỡ qua cảng và tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra trực tiếp đối với các cảng cá.
 (vi) Chưa theo dõi, kiểm soát, xử lý đối với tàu cá thông báo cập cảng nhưng sau đó tàu lại không cập cảng: Hiện tại ban quản lý cảng cá, chính quyền địa phương, Trạm kiểm soát Biên phòng tiếp tục tuyên truyền, hướng dẫn tàu cá cập cảng theo quy định. Hiện tại tỷ lệ tàu cá thông báo cập cảng nhưng không cập cảng giảm dần.
3. Các khó khăn, vướng mắc
- Khai thác hải sản không hiệu quả do chi phí nhiên liệu tăng cao, nhiều tàu nằm bờ, chờ bán, giải bản; giá hải sản không tăng ảnh hưởng đến hoạt động khai thác thủy sản, một số tàu không đủ kinh phí để lắp đặt cũng như duy trì hoạt động của thiết bị GSHT.
- Tình trạng phủ sóng vệ tinh kết nối thiết bị VMS chưa ổn định. Thiết bị Movimar được cấp đã qua sử dụng nên trong quá trình hoạt động thường xuyên bị hỏng nhưng nhà cung cấp không có linh kiện thay thế và sửa chữa.
- Thiếu căn cứ khoa học để xác định chính xác nguyên nhân thiết bị GSHT mất kết nối trên biển, do đó không xác định được tàu cá khai thác sai vùng hay chỉ neo đậu và thả trôi.
- Cơ sở hạ tầng cảng cá, bến cá còn thiếu, các cửa lạch bị bồi lắng, tàu thuyền ra vào gặp nhiều khó khăn, không đảm bảo an toàn.
- Ý thức của chủ tàu cá, thuyền trưởng còn hạn chế; trình độ còn thấp, nên khó khăn trong việc ghi nhật ký khai thác...
IV. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Kết quả đạt được trong tháng
Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Ban Chỉ đạo IUU tỉnh cùng với sự nỗ lực của các Sở, ban, ngành, chính quyền địa phương, công tác chống khai thác IUU trong tháng đã đạt được một số kết quả: các đơn vị, lực lượng có liên quan tiến hành rà soát, thống kê, lập danh sách các tàu cá chưa lắp thiết bị VMS, chưa cấp giấy phép KTTS, khoanh vùng đối tượng để theo dõi, giám sát chặt tàu cá có nguy cơ cao khai thác IUU; kiểm soát chặt chẽ tàu cá ra vào cảng, kiểm soát sản lượng qua cảng; tổ chức trực ban 24/7 hệ thống giám sát hành trình tàu cá tại Trạm Bờ của Chi cục Thủy sản; rà soát, thống nhất số liệu, hồ sơ xử phạt vi phạm khai thác IUU; tập hợp, lưu trữ hồ sơ để cung cấp báo cáo theo yêu cầu của Đoàn thanh tra EC; tiến hành kiểm tra, xác minh tàu cá vi phạm vùng biển nước ngoài để có biện pháp tuyên truyền, giáo dục, quản lý, xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật; rà soát cán bộ tham gia tiến tới kiện toàn Ban Chỉ đạo IUU tỉnh để phù hợp với tình hình thực tế tại Nghệ An.
2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
2.1. Tồn tại, hạn chế
- Chưa hoàn thành việc lắp đặt thiết bị VMS theo quy định tại Nghị định số 26/2019/NĐ-CP của Chính phủ (hiện tại còn 26 tàu chưa lắp, chiếm tỷ lệ 2,26%).
- Vẫn còn tình trạng tàu cá mất kết nối thiết bị VMS, đặc biệt là tàu cá mất kết nối trên 10 ngày vẫn xảy ra nhưng công tác xử lý chưa quyết liệt (trong tháng có 26 trường hợp mất kết nối, hiện tại UBND các xã/phường có tàu cá bị mất kết nối đang tiến hành xác minh làm rõ nguyên nhân để có căn cứ xử lý theo quy định).
- Một số thuyền trưởng chưa nghiêm túc trong việc ghi nhật ký khai thác thủy sản, vẫn còn một số nhật ký khai thác ghi sai sót, thiếu thông tin.
- Tình trạng vi phạm trong hoạt động khai thác thủy sản vẫn còn diễn ra như: Tàng trữ công cụ kích điện để khai thác thủy sản, khai thác sai vùng, Thuyền trưởng, máy trưởng không có văn bằng chứng chỉ theo quy định, không mang giấy tờ tùy thân khi tham gia khai thác thủy sản,...
- Việc cập cảng cá chỉ định để bốc dỡ sản lượng chưa được các chủ tàu, thuyền trưởng thực hiện nghiêm túc. 
2.2. Nguyên nhân:
- Thiết bị Movimar đã cũ nên thường xuyên xảy ra hư hỏng; do không có linh kiện để thay thế, sửa chữa nên các thiết bị này không thể hoạt động. Bên cạnh đó, có một số ngư dân không nạp cước phí thuê bao nên bị cắt dịch vụ duy trì tín hiệu.
- Ý thức của chủ tàu cá, thuyền trưởng còn hạn chế trong việc lắp đặt thiết bị VMS cũng như vận hành, bảo đảm thiết bị bật, phát tín hiệu khi tàu cá hoạt động trên biển theo quy định của pháp luật; một số tàu cá hoạt động không hiệu quả nên chủ tàu chưa có kinh phí để lắp thiết bị VMS.
- Việc xử lý tàu mất nối VMS khi hoạt động trên biển theo Nghị định số 42/2019/NĐ-CP của Chính phủ còn gặp khó khăn do chưa có đủ căn cứ xác định rõ nguyên nhân tàu mất kết nối.
- Một số chủ tàu, thuyền trưởng chấp hành chưa nghiêm túc các quy định của pháp luật, đặc biệt là khai thác sai vùng, mất kết nối VMS, thông báo tàu cá rời cảng/cập cảng trước 01 giờ, chưa nghiêm túc trong việc ghi, nộp nhật ký/báo cáo khai thác thủy sản; Lực lượng thực thi pháp luật chưa cương quyết xử lý các hành vi vi phạm về IUU, công tác tuần tra, kiểm tra giám sát trên biển thực hiện chưa thường xuyên, liên tục.
- Tại một số địa phương, số lượng tàu cá có chiều dài từ 15m trở lên khai thác tại vùng khơi nhưng không có cảng cá chỉ định nên ngư dân thường cấp bến cá tự phát để bốc dỡ hàng hóa, sản phẩm thủy sản, không đưa tàu vào cập cảng cá chỉ định nên việc kiểm soát, giám sát sản lượng từ khai thác còn gặp khó khăn. Cơ sở hạ tầng cảng cá, bến cá còn thiếu, các cửa lạch bị bồi lắng, tàu thuyền ra vào gặp nhiều khó khăn, không đảm bảo an toàn.
V. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM THÁNG 12/2022
1. Tiếp tục quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm, có kết quả các nhiệm vụ được giao theo chỉ đạo của: Thường trực Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ, Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về IUU và các chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về triển khai thực hiện các giải pháp chống khai thác IUU, gỡ cảnh báo ”Thẻ vàng” của EC.
3. Đôn đốc chỉ đạo quyết liệt hoàn thành việc lắp đặt thiết bị giám sát hành trình trên tàu cá, thực hiện đăng ký, đăng kiểm, cấp giấy phép khai thác thủy sản, giấy chứng nhận an toàn thực phẩm cho tàu cá theo quy định; thường xuyên rà soát, cập nhật số lượng tàu cá địa phương vào cơ sở dữ liệu nghề cá quốc gia VNFishbase.
4. Thực hiện nghiêm túc, đúng quy định việc kiểm soát tàu cá ra vào cảng, giám sát sản lượng thủy sản từ khai thác, truy xuất nguồn gốc thủy sản:
5. Theo dõi, lập danh sách các tàu cá có nguy cơ cao vi phạm khai thác IUU, Phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương để theo dõi, kiểm soát và xử lý tàu cá của tỉnh hoạt động trên địa bàn của tỉnh khác để ngăn chặn, xử lý kịp thời hành vi khai thác IUU.
6. Rà soát, xây dựng, bổ sung các cơ chế, chính sách hỗ trợ ngư dân tại địa phương thực hiện hoạt động khai thác thủy sản theo đúng quy định, đảm bảo ổn định đời sống, sinh kế của ngư dân
7. Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến pháp luật liên quan đến chống khai thác IUU.
8. Triển khai các nhiệm vụ tại Quyết định số 1077/QĐ-TTg ngày 14/9/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án ”Phòng, chống khai thác hải sản bất hợp pháp không báo cáo và không theo quy định đến năm 2025”.
VI. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
Để thực hiện nhiệm vụ chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định có hiệu quả trong thời gian tới, Sở Nông nghiệp và PTNT kiến nghị Bộ Nông nghiệp và PTNT, Tổng cục Thủy sản:  
1. Chỉ đạo các đơn vị cung cấp thiết bị VMS nâng cao chất lượng tín hiệu nhằm đảm bảo quản lý chính xác, hiệu quả. Xử lý nghiêm các đơn vị cung cấp thiết bị VMS không đảm bảo chất lượng theo quy định.
2. Yêu cầu các đơn vị đăng kiểm cập nhật dữ liệu đăng kiểm tàu cá lên hệ thống Vnfishbase nhằm đảm bảo theo dõi đánh giá đúng thực tế.
Trên đây là báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định trên địa bàn tỉnh Nghệ An trong tháng 11/2022./.
 

Nguồn tin: Nguyễn Thị Huệ

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập3
  • Hôm nay1,204
  • Tháng hiện tại24,665
  • Tổng lượt truy cập1,837,547
Tin nóng
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây