Kết quả thực hiện các giải pháp chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định, gỡ cảnh báo “Thẻ vàng” của EC năm 2021 và nhiệm vụ, giải pháp chống khai thác IUU năm 2022
Thứ hai - 27/12/2021 20:033730
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thường trực Ban Bí thư tại Văn bản số 81-CV/TW, ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại: Chỉ thị số 689/CT-TTg, các Công điện: số 1329/CĐ-TTg, số 732/CĐ-TTg, số 1275/CĐ-TTg, Chỉ thị số 45/CT-TTg và các ý kiến Kết luận của Ban chỉ đạo quốc gia về IUU, tỉnh Nghệ An đã triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp để thực hiện các khuyến nghị của EC, gỡ cảnh báo “Thẻ vàng”. Sở Nông nghiệp & PTNT báo cáo kết quả thực hiện năm 2021 như sau: I. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHỐNG KHAI THÁC IUU 1. Công tác chỉ đạo điều hành Thực hiện ý kiến Chỉ đạo của Thường trực Ban Bí thư tại Văn bản số 81-CV/TW ngày 20/3/2020 về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hiệu quả công tác chống khai thác IUU, Công văn số 1063/TTg-NN ngày 12/8/2020 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện Công văn số 81-CTV/TW của Thường trực Ban Bí thư, trong năm 2021, UBND tỉnh Nghệ An ban hành 12 văn bản để chỉ đạo, điều hành trong công tác chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định. (Chi tiết có Phụ lục 1 kèm theo). 2. Công tác kiểm tra, chỉ đạo thực hiện khắc phục khuyến nghị Thực hiện quy chế hoạt động, trong năm 2021 Ban chỉ đạo IUU tỉnh đã: -Tổ chức, tham gia 05 cuộc[1] họp để đánh giá tình hình, kết quả đạt được, các tồn tại, hạn chế và nguyên nhân, đề ra các nhiệm vụ, giải pháp để chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra việc tổ chức thực hiện. Kết luận mỗi cuộc họp được Văn phòng UBND tỉnh kịp thời ban hành Thông báo để các sở, ban, ngành, địa phương và đơn vị liên quan quán triệt, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. - Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo (Sở Nông nghiệp và PTNT) đã tổ chức 03 cuộc[2] kiểm tra tại các Tổ công tác liên ngành, cảng cá và các tàu cá hoạt động khai thác thủy sản. Qua kiểm tra các Đoàn đã tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính đối với 03 chủ tàu cá và đã bàn giao cho Đồn Biên phòng Diễn Thành và UBND xã Diễn Ngọc, huyện Diễn Châu ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền phạt: 7.000.000 đồng. - Thực hiện các Thông báo kết luận cuộc họp của Ban Chỉ đạo quốc gia về chống khai thác IUU, Ban Chỉ đạo IUU tỉnh đã ban hành các văn bản để chỉ đạo các sở, ban, ngành và UBND các huyện, thị ven biển thực hiện nghiêm túc, trong đó yêu cầu người đứng đầu đơn vị, địa phương phải chịu trách nhiệm nếu để tình trạng vi phạm khai thác IUU diễn ra. - Tổ chức 09 cuộc kiểm tra liên ngành tiến hành tuần tra, kiểm tra, kiểm soát trên vùng biển ven bờ, vùng lộng biển Nghệ An theo Kế hoạch số 693/KH-SNN.TS ngày 09/3/2021 của Sở Nông nghiệp & PTNT. Thành phần đoàn tham gia gồm có: Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh, Thanh tra Sở Nông nghiệp & PTNT, Sở Thông tin và truyền thông, Báo Nghệ An, Đài truyền hình Nghệ An, Chi cục Thủy sản và đại diện UBND các huyện thị ven biển. - 04 huyện/thị xã ven biển (Hoàng Mai, Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Cửa Lò) đã thành lập Ban chỉ đạo IUU cấp huyện (trong đó có Chủ tịch UBND các xã, phường có nghề khai thác hải sản phát triển) để chỉ đạo công tác IUU tại địa phương được tập trung và sâu sát hơn. 3. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật Chỉ đạo các đơn vị tích cực tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật dưới các hình thức như: tổ chức các lớp tập huấn, hội nghị, phát trên hệ thống truyền thanh của phường xã; tuyên truyền qua công tác đăng ký đăng, kiểm tàu cá cũng như trong quá trình tuần tra, kiểm tra, kiểm soát trên biển ..., cụ thể: - Tuyên truyền các thông tin, các văn bản, quy định về công tác phòng chống dịch Covid 19; phổ biến cho người dân cách thức tổ chức sản xuất trong tình hình dịch bệnh có diễn biến phức tạp. - Phối hợp với Tổng cục Thủy sản, chính quyền địa phương các xã/phường ven biển tổ chức 35 lớp tập huấn về Luật Thủy sản, các văn bản hướng dẫn và các quy định, giải pháp chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định cho 1.436 lượt người tham gia; phát 1000 tờ rơi tuyên truyền về chống khai thác IUU cho các chủ tàu/thuyền trưởng; Xây dựng 02 phóng sự và 135 tin bài về tuyên truyền chống khai thác IUU đã được phát sóng trên Đài truyền hình Nghệ An; Báo Nghệ An. - Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh đã chỉ đạo các đơn vị phối hợp các địa phương tuyến biển và các lực lượng tổ chức tuyên truyền trên loa phát thanh của phường, xã 102 đợt, tổ chức tuyên truyền tập trung tại các thôn, xóm cho ngư dân 72 buổi/8.131 lượt người tham gia, phát 9.076 tờ rơi và tổ chức tuyên truyền trực tiếp tại Trạm KSBP khi các phương tiện xuất, nhập cửa sông, cửa lạch. Nội dung tuyên truyền là các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Luật Thủy sản 2017, các nghị định hướng dẫn, ... trong đó có Chỉ thị số 2082/CT-BTL ngày 16/6/2017 của Bộ Tư lệnh BĐBP về việc tăng cường các biện pháp ngăn chặn, giảm thiểu và chấm dứt tàu cá Việt Nam khai thác trái phép ở vùng biển nước ngoài; Chỉ thị số 4353/CT-BTL ngày 23/10/2018 của Bộ Tư lệnh về tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát người, phương tiện nghề cá hoạt động trên biển; Kế hoạch số 4084/KH-BĐBP ngày 06/10/2021 Bộ Tư lệnh BĐBP về việc mở đợt cao điểm ngăn chặn, chấm dứt tình trạng tàu cá Việt Nam khai thác hải sản trái phép ở vùng biển nước ngoài. - UBND các huyện, thị ven biển đã chỉ đạo UBND các xã/phường tổ chức tuyên truyền vận động đến tận từng Tổ đồng quản lý, Hợp tác xã, Tổ đội sản xuất và đến tận từng hộ dân về chống khai thác IUU; đặc biệt là yêu cầu các chủ tàu, thuyền trưởng ký cam kết không vi phạm khai thác IUU. Đến nay 100% chủ tàu, thuyền trưởng khai thác xa bờ ký cam kết không vi phạm vùng biển nước ngoài. 4. Kết quả thực hiện các khuyến nghị của EC 4.1. Tổ chức thực hiện theo hệ thống khung pháp lý đã được ban hành Trên cơ sở Luật Thủy sản 2017, các Nghị định của Chính phủ, Thông tư hướng dẫn thực hiện Luật Thủy sản của Bộ Nông nghiệp và PTNT cũng như hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, các Kế hoạch và các văn bản chỉ đạo của UBND tỉnh đã ban hành, trong năm 2021 Sở Nông nghiệp và PTNT đã chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành và địa phương liên quan tích cực triển khai thực hiện, cụ thể: - Sở Nông nghiệp và PTNT đã ban hành 28 văn bản để chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị, địa phương thực hiện nghiêm túc các văn bản chỉ đạo của Thường trực Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ, Ban chỉ đạo quốc gia, UBND tỉnh, các quy định của Luật Thủy sản và các quy định về chống khai thác IUU. - Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh đã ban hành 07 văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các Đồn, Trạm biên phòng tuyến biển tăng cường công tác phòng, chống khai thác IUU; thường xuyên tổ chức các đợt kiểm tra tại các Đồn, Trạm về công tác phòng chống khai thác IUU; đặc biệt là công tác kiểm tra, kiểm soát tàu cá ra, vào cửa lạch; kiểm điểm nhắc nhở những tổ chức, cá nhân thiếu tinh thần trách nhiệm và có biện pháp xử lý nghiêm theo quy định. - UBND các huyện, thị xã ven biển cũng đã ban hành các Kế hoạch hành động triển khai các giải pháp chống khai thác IUU tại địa phương, các văn bản chỉ đạo xã/phường thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách để khắc phục cảnh báo thẻ Vàng của EC. 4.2. Theo dõi, kiểm tra, kiểm soát hoạt động tàu cá, quản lý các đội tàu Tổng số thiết bị giám sát hành trình (VMS) đã lắp trên tàu cá có chiều dài lớn nhất từ 15m trở lên là 1.126[3]/1.177 chiếc, đạt tỷ lệ 95,67%, còn 51 chiếc[4] chưa lắp, chiếm tỷ lệ 4,33%. Những tàu cá đã lắp giám sát hành trình được giám sát trong quá trình hoạt động khai thác hải sản trên biển qua hệ thống giám sát tàu cá đặt tại Trạm Bờ Chi cục Thủy sản/Tổng cục Thủy sản. Qua theo dõi đã kịp thời phát hiện cảnh báo các tình huống xảy ra trên biển cho các chủ tàu/thuyền trưởng được biết nhằm đảm bảo hoạt động tàu cá không vi phạm các quy định về khai thác IUU. - Qua theo dõi trên Hệ thống giám sát hành trình, trong năm 2021 có 414 tàu cá mất kết nối thiết bị VMS và 09 tàu cá vượt ranh giới trên biển. Chi cục Thủy sản đã gửi thông báo danh sách các tàu cá mất kết nối thiết bị VMS, vượt ranh giới trên biển tới UBND các huyện, thị, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh, Đồn Biên phòng tuyến biển, các cảng cá và Tổ công tác Liên ngành để cùng phối hợp kiểm tra, xác minh và xử lý vi phạm. Bước đầu, các cơ quan, đơn vị đã tiến hành xử lý đối với 09 tàu cá tàu cá vượt ranh giới cho phép trên biển và 364/414 tàu cá mất kết nối: + Đối với 09 tàu cá vượt ranh giới cho phép trên biển, UBND tỉnh đã giao Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành, địa phương xác minh, xử lý theo quy định. Qua báo cáo của Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh, kết quả kiểm tra, xác minh 09 tàu cá nói trên mới chỉ vượt ranh giới Vịnh Bắc Bộ, chưa thực hiện khai thác thủy sản trên vùng biển Trung Quốc nên chưa có đủ căn cứ để xử phạt 09 tàu cá vi phạm vùng biển nước ngoài. + Đối với các tàu cá mất kết nối là do lỗi thiết bị (do thiết bị được hỗ trợ cũ, tự mất tín hiệu; đối với các máy mới mua thì do hệ thống tín hiệu chưa ổn định...), do đó chưa có cơ sở xử lý vi phạm mà chỉ yêu cầu ngư dân cam kết không ngắt kết nối trong quá trình đi khai thác. + Yêu cầu cảng cá không cho tàu cá bốc dỡ thủy sản, xuất lạch khi chưa có biên bản giải trình, làm rõ lý do mất kết nối, chưa nạp cước thuê bao duy trì hoạt động thiết bị VMS theo quy định. + Yêu cầu các đơn vị cung cấp thiết bị VMS kiểm tra tình trạng hoạt động của thiết bị VMS để làm rõ nguyên nhân tàu cá mất kết nối. + Thu hồi 140 Giấy phép khai thác thủy sản vùng khơi đã cấp cho các tàu cá có chiều dài lớn nhất từ 15m trở lên không duy trì hoạt động thiết bị giám sát hành trình theo quy định tại điểm g, khoản 3, Điều 44 Nghị định số 26/2019/NĐ-CP và đã có văn bản gửi các Đồn Biên phòng tuyến biển, Tổ Công tác liên ngành thanh tra, kiểm soát nghề cá tại các cảng cá kiểm soát chặt chẽ, không cho các tàu cá trên xuất lạch tham gia khai thác thủy sản. - Thực hiện tốt công tác quản lý đội tàu, đảm bảo ổn định số lượng tàu cá theo hạn ngạch. Tổng số tàu cá trên địa bàn toàn tỉnh (tính đến ngày 18/12/2021) là 3.414 tàu. Trong đó, số tàu thuộc diện phải đăng ký (có chiều dài lớn nhất từ 6m trở lên) là 2.517 chiếc, bao gồm: loại Lmax 6 ≤ 12m: 796 chiếc, loại Lmax 12≤ 15m: 544 chiếc, loại Lmax >= 15m: 1.177 chiếc (trong đó loại Lmax >= 24m là 231 chiếc). Số tàu thuộc diện phải đăng kiểm là 1.722 chiếc[5]; trong đó: số tàu phải đăng kiểm đang hoạt động là 1.546 chiếc; số tàu đã đăng kiểm đang còn hạn là 1.470 chiếc. Tỷ lệ đăng kiểm đạt 95,08%, bằng 97,01% so với cùng kỳ năm 2020 và bằng 95,08% so với kế hoạch năm. Các tàu cá được đánh dấu theo quy định tại Thông tư 23/2018/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và PTNT. Công tác cấp giấy phép khai thác cho tàu cá đạt tỷ lệ khá cao, tính đến ngày 18/12/2021 số lượng tàu cá đã được cấp giấy phép là 2.221/2.256 chiếc tàu đang hoạt động (đạt 98,45%) tăng 2,02% so với cùng kỳ năm trước. 4.3. Về chứng nhận và truy xuất nguồn gốc thủy sản - Cảng cá đã yêu cầu các chủ tàu cá phải thông báo ít nhất 01 tiếng trước khi cập hoặc rời cảng theo quy định. Sau thời gian triển khai thực hiện, cùng với việc tuyên truyền, phổ biến cũng như xử lý đối với các trường hợp vi phạm nhằm răn đe, đến nay ý thức của ngư dân đã được nâng cao và chấp hành quy định tốt hơn. Trong năm 2021, tỷ lệ thông báo của ngư dân trước khi tàu cá cập cảng hoặc rời cảng (đối với các tàu cá có thông báo và đã cập cảng) tại các Cảng cá trên địa bàn tỉnh đạt tỷ lệ 100%. - Công tác giám sát sản lượng bốc dỡ hàng hóa qua cảng đã được Ban quản lý Cảng cá Nghệ An thực hiện nghiêm túc và hiệu quả hơn. Tỷ lệ giám sát sản lượng bốc dỡ qua cảng trong năm 2021 cao hơn các năm trước, đạt tỷ lệ 100% sản lượng qua cảng. Cảng cá đã tiếp nhận và kiểm tra các thông tin trong nhật ký khai thác, đảm bảo nhật ký khai thác đầy đủ theo đúng quy định. Số lượng tàu cá đã cập cảng có ghi và nộp nhật ký theo quy định đạt tỷ lệ 100%; đối với tàu không cập cảng đạt tỷ lệ 30-50%. (Số liệu tàu cá cập cảng, rời cảng và sản lượng qua cảng tại các cảng cá có phụ lục 2 kèm theo). - Việc ghi, nộp nhật ký của ngư dân sau khi khai thác cũng dần được cải thiện, ngư dân đã chủ động ghi nhật ký khai thác, nộp cho cảng cá kịp thời. Tuy nhiên chất lượng nhật ký khai thác chưa cao (vẫn còn tình trạng ghi số mẻ khai thác ít, số lượng không chính xác, thiếu thông tin,... ). - Hoạt động của các Tổ công tác Liên ngành thanh tra, kiểm soát nghề cá tại cảng cá thực hiện theo Kế hoạch thanh tra, kiểm soát nghề cá đảm bảo tính thống nhất, có sự phối hợp giữa các đơn vị thực hiện, đến nay đã có sự kiểm tra, đối chiếu thông tin trên Nhật ký khai thác với dữ liệu trên Hệ thống giám sát tàu cá. Các Tổ công tác Liên ngành thực hiện kiểm tra tàu cá cập, rời cảng theo Thông tư số 21/2018/TT-BNNPTNT: kiểm tra 100% tàu cá cập, rời cảng đối với tàu cá có chiều dài lớn nhất từ 24m trở lên; kiểm tra 5 - 10% tàu cá cập, rời cảng đối với tàu cá có chiều dài lớn nhất dưới 24m. Kết quả cụ thể: - Tổng số lượng tàu cá rời cảng được kiểm tra: 2.728 lượt tàu/4.412 lượt tàu rời cảng, tỷ lệ kiểm tra đạt 62%, tăng 4,32% so với năm 2020. Trong đó, số lượt tàu cá >24m được kiểm tra: 1.044 lượt/1.044 lượt tàu rời cảng, tỷ lệ kiểm tra đạt 100%; số lượt tàu <24m được kiểm tra: 1.684 lượt/3.368 lượt tàu rời cảng, tỷ lệ kiểm tra đạt 50%. - Tổng số lượng tàu cá cập cảng được kiểm tra: 2.713 lượt tàu/4.397 lượt tàu cập cảng, tỷ lệ kiểm tra đạt 62%, tăng 4,42% so với năm 2020. Trong đó, số lượt tàu cá >24m được kiểm tra: 1.016 lượt/1.016 lượt tàu cập cảng, tỷ lệ kiểm tra đạt 100%; số lượt tàu <24m được kiểm tra: 1.697 lượt/3.3.381 lượt tàu cập cảng, tỷ lệ kiểm tra đạt 50%. - Tổng sản lượng thủy sản bốc dỡ qua cảng được kiểm tra: 5.374 tấn/5.822 tấn, tỷ lệ kiểm tra đạt 92%, tăng 5,45% so với năm 2020. (Chi tiết số liệu tại các Tổ công tác có phụ lục 3 kèm theo). - Công tác xác nhận, chứng nhân nguồn gốc thủy sản từ khai thác: Toàn tỉnh có 4/4 cảng cá đã được công bố mở cảng theo quy định, có 2/4 cảng cá (cảng Cửa Hội, cảng Quỳnh Phương) là cảng cá được chỉ định có đủ hệ thống xác định nguồn gốc thủy sản từ khai thác. Đến nay, Cảng cá và Chi cục Thủy sản chưa nhận được hồ sơ của các tổ chức, cá nhân nào yêu cầu biên nhận, cấp giấy xác nhận nguồn gốc nguyên liệu thuỷ sản, chứng nhận nguồn gốc nguyên liệu thủy sản. 4.4. Về thực thi pháp luật a) Ngăn chặn, xử lý tàu cá vi phạm vùng biển nước ngoài Trong năm 2021 có 09 tàu cá trên địa bàn tỉnh Nghệ An vi phạm vùng biển nước ngoài (Trung Quốc). Thực hiện ý kiến chỉ đạo của UBND tỉnh Nghệ An tại Công văn số 151/UBND-NC ngày 20/5/2021 “V/v tàu cá Việt Nam khai thác hải sản trong vùng biển Trung Quốc tháng 4/2021”, ngày 17/6/2021, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng chủ trì cuộc họp thống nhất biện pháp xử lý và đã có văn bản tham mưu UBND tỉnh xử lý 09 tàu cá vi phạm. Trên cơ sở Báo cáo số 1723/BC-BCH ngày 19/7/2021 của Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh đề xuất biện pháp xử lý 09 tàu cá trên địa bàn thị xã Hoàng Mai và huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An vi phạm vùng biển Trung Quốc, UBND tỉnh giao Sở Tư pháp chủ trì, phối hợp với Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh, Công an tỉnh, Sở Nông nghiệp và PTNT, Sở Ngoại vụ và các Sở, ngành địa phương có liên quan nghiên cứu hồ sơ vụ việc tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo xử lý đảm bảo an ninh chính trị, đối ngoại và quy định của pháp luật. Đến nay, qua quá trình điều tra, xác minh nhằm củng cố hồ sơ, xác định rõ hành vi vi phạm của 09 tàu cá, Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh đã có báo cáo kết luận: 09 tàu cá trên địa bàn thị xã Hoàng Mai và huyện Quỳnh Lưu mới chỉ vượt ranh giới Vịnh Bắc Bộ, chưa thực hiện khai thác thủy sản trên vùng biển Trung Quốc nên chưa có đủ căn cứ để xử phạt 09 tàu cá vi phạm vùng biển nước ngoài. Bên cạnh đó, qua điều tra, xác minh Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh đã phát hiện 08/09 tàu cá trên đã có các hành vi vi phạm khác tại Nghị định 42/2019/NĐ-CP của Chính phủ và đã xử phạt vi phạm hành chính đối với 08 tàu cá với tổng số tiền phạt: 200 triệu đồng. b) Công tác tuần tra, kiểm soát trên biển, xử phạt đối hành vi khai thác IUU Căn cứ vào kế hoạch và thông tin từ đường dây nóng (18001746), trong thời gian qua Sở Nông nghiệp và PTNT (trực tiếp là Chi cục Thủy sản) và Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng đã chủ trì, phối hợp thực hiện tốt nhiệm vụ tuần tra, kiểm tra, kiểm soát hoạt động tàu cá trên biển, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi khai thác IUU. Kết quả: - Chi cục Thủy sản đã thực hiện tuần tra, kiểm soát trên biển 307 ngày công tác, kiểm tra được 3.007 lượt phương tiện. Qua đó đã phát hiện xử phạt vi phạm hành chính đối 83 vụ/83 đối tượng/83 phương tiện với tổng số tiền phạt: 505.900.000 đồng. Tang vật tịch thu: 16 chiếc kích điện, 01 lưới kéo, 365m dây điện. - Các đồn Biên phòng và Hải đội 2 tổ chức lực lượng tuần tra, kiểm soát vùng biển được 221 đợt/1.158 lượt cán bộ chiến sỹ; phối hợp với các lực lượng tuần tra kiểm soát vùng biển được 70 đợt/514 lượt cán bộ, chiến sỹ tham gia. Kiểm tra, kiểm soát xuất, nhập tại cửa sông cửa lạch và tại bến đậu, bãi ngang được 98.774 lượt phương tiện/316.329 lượt người, qua đó xử lý vi phạm về lĩnh vực thủy sản 184 vụ/187 đối tượng/187 phương tiện với tổng số tiền xử phạt 758.464.000 đồng, tang vật thu giữ: 08 bộ công cụ kích điện, 155m dây điện. (Có phụ lục 4 kèm theo) II. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC, TỒN TẠI, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN 1. Đánh giá kết quả đạt được Năm 2021 được đánh giá là một năm khó khăn và đầy thách thức đối với cả nước nói chung và Nghệ An nói riêng do ảnh hưởng của dịch Covid 19. Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Ban Chỉ đạo IUU tỉnh cùng với sự nỗ lực của các Sở, ban, ngành, chính quyền địa phương trong thực hiện Chỉ đạo của Thường trực Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo quốc gia về IUU, Bộ Nông nghiệp và PTNT về chống khai thác IUU đã đạt được một số kết quả nhất định: Công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Thủy sản 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật, các quy định liên quan đến chống khai thác IUU tiếp tục được tăng cường; ngư dân đã chủ động thông báo trước khi tàu cập, rời cảng cá; ghi, nộp nhật ký khai thác thủy sản theo quy định; hầu hết ngư dân đã chủ động lắp thiết bị VMS; Công tác phối hợp giữa các đơn vị được tăng cường, thường xuyên giám sát tàu cá ra, vào tại các cửa lạch, cảng cá cũng như thực thi pháp luật trên biển; Việc giám sát tàu cá từng bước được cải thiện, công tác giám sát sản lượng bốc dỡ thủy sản tại các cảng cá đã có những chuyển biến tích cực; Hồ sơ ghi chép, lưu trữ tại các cảng cá được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo truy xuất kịp thời; Kỹ năng cán bộ tại các cảng cá, Tổ Liên ngành thực hiện các quy định về kiểm tra, kiểm soát tàu cá cập cảng, rời cảng, kiểm soát sản lượng bốc dỡ qua cảng được nâng cao hơn trước; bước đầu đã khai thác, sử dụng dữ liệu VMS để kiểm tra thông tin tàu cá trước khi cập cảng. 2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân a) Tồn tại, hạn chế - Chưa hoàn thành việc lắp đặt thiết bị VMS theo quy định tại Nghị định số 26/2019/NĐ-CP của Chính phủ (hiện tại còn 51 tàu chưa lắp, chiếm tỷ lệ 4,33%). - Tình trạng tàu cá mất kết nối thiết bị VMS, đặc biệt là tàu cá mất kết nối trên 10 ngày vẫn xảy ra nhưng công tác xác minh, xử lý còn hạn chế. - Công tác xử lý các hành vi khai thác IUU thực hiện còn hạn chế. - Việc khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu để kiểm soát tàu cá tại các cảng cá trên phần mềm điện tử chưa được chú trọng, hiện tại việc ghi, chép, khai thác, lưu trữ chủ yếu được thực hiện thủ công, trên giấy; chưa truy cập được cơ sở dữ liệu nghề cá quốc gia VNFishbase để phục vụ cho công tác kiểm tra, xử lý các hành vi khai thác IUU - Chưa đảm bảo kiểm soát theo quy định đối với tàu cá ngoài tỉnh cập cảng. - Chưa theo dõi, kiểm soát, xử lý đối với tàu cá thông báo cập cảng nhưng sau đó tàu lại không cập cảng, đặc biệt là đối với các tàu cá có chiều dài lớn nhất từ 24m trở lên. b) Nguyên nhân - Thiết bị Movimar[6] đã cũ nên thường xuyên xảy ra hư hỏng; do không có linh kiện để thay thế, sửa chữa nên các thiết bị này không thể hoạt động. Bên cạnh đó, có một số ngư dân không nạp cước phí thuê bao nên bị cắt dịch vụ duy trì tín hiệu; ngoài ra, một số ngư dân tuy đã nạp cước phí để duy trì dịch vụ nhưng đơn vị cung cấp hoàn trả do không đảm bảo việc duy trì tín hiệu cho thiết bị giám sát. - Ý thức của chủ tàu cá, thuyền trưởng còn hạn chế trong việc lắp đặt thiết bị VMS cũng như vận hành, bảo đảm thiết bị bật, phát tín hiệu khi tàu cá hoạt động trên biển theo quy định của pháp luật; một số tàu cá hoạt động không hiệu quả nên chủ tàu chưa có kinh phí để lắp thiết bị VMS. - Phần lớn các tàu cá mất kết nối là do lỗi khách quan (do thiết bị được hỗ trợ cũ, tự mất tín hiệu; đối với các máy mới mua thì do hệ thống tín hiệu chưa ổn định...), do đó không có cơ sở xử lý vi phạm mà chỉ yêu cầu ngư dân cam kết không ngắt kết nối trong quá trình đi khai thác. - Chưa cương quyết xử lý chủ tàu/thuyền trưởng về hành vi vi phạm như: mất kết nối giám sát hành trình, ghi, nộp nhật ký không đầy đủ, chưa thông báo trước khi tàu cập, rời cảng. - Năng lực, trình độ và kỹ năng của các cán bộ làm việc tại các cảng cá còn hạn chế. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào thực hiện quy định về kiểm tra, kiểm soát tàu cá cập cảng, rời cảng, kiểm soát sản lượng bốc dỡ qua cảng cũng như xử lý các hành vi khai thác IUU chưa được tập huấn thường xuyên. - Do năng lực của cảng cá mới chỉ đáp ứng được 30 – 40% nhu cầu cập cảng bốc dỡ hàng hóa của tàu cá trên địa bàn. Bên cạnh đó do đặc thù nghề nghiệp và điều kiện tự nhiên của cửa lạch, tàu cá thường cập bến vào một số thời điểm nhất định (tùy thuộc vào thủy triều và ngày tàu cá khai thác về cảng) nên có những thời điểm số lượng tàu cá bốc dỡ nhiều, việc giám sát sản lượng thủy sản bốc dỡ qua cảng chưa đảm bảo theo yêu cầu.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp & PTNT Phùng Đức Tiến về thăm và làm việc với tỉnh Nghệ An về chống khai thác IUU tháng 11 năm 2021
III. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM TRONG NĂM 2022 Để không ảnh hưởng đến nỗ lực chống khai thác IUU của cả nước và thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ giao sớm gỡ cảnh báo ”Thẻ vàng” của EC, trong năm 2022 Nghệ An tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp sau: 1. Tiếp tục quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm, có kết quả các nhiệm vụ được giao theo chỉ đạo của: Thường trực Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ, Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về IUU và các chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về triển khai thực hiện các giải pháp chống khai thác IUU, gỡ cảnh báo ”Thẻ vàng” của EC; tập trung triển khai Luật Thủy sản năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật. 2. Đôn đốc quyết liệt hoàn thành việc lắp đặt thiết bị VMS, thực hiện đăng ký, đăng kiểm, cấp Giấy phép khai thác thủy sản, Giấy chứng nhận an toàn thực phẩm cho tàu cá theo quy định; thường xuyên rà soát, cập nhật số lượng tàu cá địa phương vào cơ sở dữ liệu nghề cá quốc gia VNFishbase. 3. Lập danh sách theo dõi, quản lý chặt chẽ tàu cá không có Giấy phép khai thác thủy sản, không lắp đặt hoặc có thiết bị VMS nhưng không kích hoạt, vận hành, mất kết nối VMS. Khai thác, vận hành có hiệu quả Hệ thống giám sát tàu cá để theo dõi, kiểm soát hoạt động tàu cá trên biển, kịp thời xử lý các hành vi khai thác IUU. 4. Tập trung hoàn thiện, đầu tư cơ sở hạ tầng nghề cá, hệ thống thông tin quản lý nghề cá trên biển đồng bộ, hiện đại; kiện toàn và nâng cao năng lực cho bộ máy quản lý thủy sản bảo đảm kiểm soát tàu cá ra vào cảng, kiểm soát sản lượng thủy sản bốc dỡ qua cảng theo quy định, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chống khai thác IUU. 5. Thường xuyên tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ tại cảng cá, Tổ Liên ngành thanh tra, kiểm soát nghề cá tại các cảng cá đảm bảo thực hiện đúng quy định pháp luật về kiểm tra, kiểm soát tàu cá ra vào cảng, sản lượng thủy sản bốc dỡ qua cảng, phân tích sử dụng dữ liệu VMS, xử lý các hành vi khai thác IUU theo quy định. Ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu trên phần mềm điện tử để dễ dàng lưu trữ, theo dõi, truy xuất, quản lý. 6. Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến pháp luật liên quan đến chống khai thác IUU; kiên quyết xử phạt các hành vi khai thác IUU theo quy định tại Nghị định số 42/2019/NĐ-CP của Chính phủ; Thực hiện các biện pháp mạnh, đồng bộ, quyết liệt nhằm chấm dứt hoàn toàn tình trạng tàu cá Nghệ An vi phạm vùng biển nước ngoài. 7. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát; gắn trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp, sở, ban, ngành đặc biệt là cấp cơ sở (xã/phường/thị trấn), kiểm điểm, xử lý nghiêm tổ chức, cá nhân thiếu tinh thần, trách nhiệm trong công tác chống khai thác IUU. IV. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT Để thực hiện nhiệm vụ chống khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định, gỡ cảnh báo “Thẻ vàng” trong thời gian tới, Sở Nông nghiệp & PTNT đề xuất, kiến nghị một số nội dung sau: 1. Đối với UBND tỉnh Nghệ An - Bố trí thêm nhân lực, các trang thiết bị cho Ban quản lý cảng cá Nghệ An để tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát tàu cá, giám sát sản lượng thủy sản bốc dỡ qua cảng. - Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ lắp đặt thiết bị VMS cho tàu cá có chiều dài lớn nhất từ 15m trở lên. 2. Đối với Bộ Nông nghiệp và PTNT - Bổ sung quy định về việc xử lý các nhà cung cấp thiết bị giám sát hành trình tàu cá không cung cấp thiết bị đúng quy định, không đảm bảo tín hiệu vệ tinh cho thiết bị VMS. - Quan tâm, bố trí nguồn vốn đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng nghề cá một cách đồng bộ.
Phan Tiến Chương -BQL Cảng cá Nghệ An
[1] 01 cuộc họp Ban chỉ đạo về IUU tỉnh ngày 23/9/2021; 02 cuộc họp làm việc với Bộ Nông nghiệp và PTNT; 02 cuộc họp trực tuyến do Thủ tướng và Phó Thủ tướng Chính phủ chủ trì.
[2] 03 cuộc: (1) Từ ngày 06/4 – 14/4; (2) Từ ngày 06/10 -11/10; (3) Từ ngày 16/11 – 18/11/2021.
[3] Trong số tàu cá đã lắp thiết bị VMS có 160 tàu cá đã cắt ngừng dịch vụ nên Tổng cục Thủy sản đã đưa vào danh sách thuộc diện chưa lắp, nên tỷ lệ chỉ đạt: 82,07%.
[4]Lý do 51 tàu chưa lắp VMS: 06 chiếc đã lắp VMS nhưng chưa kích hoạt, 02 chiếc cho người ở tỉnh khác thuê, 30 chiếc đậu bờ, 05 chiếc đang làm thủ tục cải hoán, 03 chiếc đóng mới đang hoàn thiện hồ sơ, 02 chiếc thuộc diện vay vốn theo NĐ 67/CP hiện nay đã bị Ngân hàng tịch thu, 01 chiếc đang làm thủ tục đổi chủ, 01 chiếc mới mua ngoại tỉnh về đang hoàn thiện hồ sơ, 01 chiếc đã lắp hủy dịch vụ chuyển thiết bị sang lắp tàu khác.
[5] Có 01 tàu đã thực hiện đăng kiểm nhưng chưa đăng ký
[6] Tổng số thiết bị Movimar được Bộ Nông nghiệp và PTNT hỗ trợ cho tỉnh Nghệ An: 454 bộ, trong đó: đã triển khai lắp đặt 450 thiết bị/450 tàu cá; còn lại 04 thiết bị bị hỏng, không sử dụng được (Đài Thông tin Duyên hải Bến Thủy đang cất giữ). Trong đó: 338 thiết bị đang lắp đặt tại các tàu cá; 77 thiết bị đã thu hồi do chủ tàu không có nhu cầu sử dụng; 35 thiết bị không có nhu cầu sử dụng nhưng chưa thu hồi được (Do mất mát, hư hỏng các bộ phận, chủ tàu chưa giao nộp; tàu cá bị cháy chìm trên biển nên thiết bị mất theo tàu...). Hiện tại, trong số 338 thiết bị đang lắp đặt tại các tàu cá có 182 thiết bị duy trì hoạt động và 156 thiết bị bị cắt ngừng dịch vụ (89 thiết bị đã bị hư hỏng không sửa chữa được do không có linh kiện thay thế và 67 thiết bị bị cắt ngừng dịch vụ do không nạp cước thuê bao).