Thông qua kết luận kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật tại các cảng cá; hoạt động thực thi nhiệm vụ của Tổ công tác Liên ngành và tàu cá hoạt động khai thác thủy sản

Thứ năm - 07/07/2022 21:02 1.395 0
Đồng chí Trần Xuân Học - Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT Nghệ An chủ trì buổi kết luận
Đồng chí Trần Xuân Học - Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT Nghệ An chủ trì buổi kết luận
Thực hiện Quyết định số 404/QĐ-SNN.TS ngày 09/6/2022 của Sở Nông nghiệp và PTNT Nghệ An về việc thành lập đoàn kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật tại các cảng cá; hoạt động thực thi nhiệm vụ của Tổ công tác Liên ngành và tàu cá hoạt động khai thác thủy sản. Trong đợt kiểm tra từ ngày 15/6/2022 đến ngày 22/6/2022, Đoàn Kiểm tra đã tiến hành kiểm tra tại 04 cảng cá thuộc Ban Quản lý cảng cá Nghệ An và 04 Tổ công tác Liên ngành thanh tra, kiểm soát nghề cá tại 04 cảng cá, 43 tàu cá.
Sau 1 tuần kiểm tra thực tế tại các cảng cá, tổ công tác liên ngành, ngày 6/7/2022 tại Ban quản lý cảng cá Nghệ An đã tổ chức họp dự thảo thông qua kết luận của đợt kiểm tra vừa qua. Dự và chỉ đạo có đồng chí Trần Xuân Học – Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp & PTNT – Trưởng đoàn kiểm tra, các thành viên đoàn kiểm tra, đại diện UBND huyện, thị ven biển, Đồn/Trạm biên phòng tuyến biển. Qua công tác kiểm tra có một số đánh giá:
a) Đối với Ban quản lý cảng cá, các cảng cá
- Về Hồ sơ pháp lý: Ban Quản lý cảng cá, các cảng cá đã thực hiện khắc phục; hiện nay hồ sơ, thủ tục pháp lý khá đầy đủ theo quy định.
- Công khai các thông tin tại cảng cá: Cảng cá đã thực hiện niêm yết công khai các thông tin cho chủ tàu, thuyền trưởng được biết và chấp hành như: Quy trình kiểm tra tàu cá, giám sát sản lượng bốc dỡ tại cảng; Kiểm tra, cấp giấy xác nhận nguyên liệu thủy sản; Nội quy tàu xe hoạt động tại cảng cá; Bảng giá dịch vụ sử dụng cảng cá trực thuộc BQL Cảng cá Nghệ An; Danh sách tàu cá thường xuyên cập cảng.
- Thực hiện quy định về thông báo của tàu cá trước khi ra, vào cảng: Cảng cá đã cử cán bộ trực điện thoại tiếp nhận cuộc gọi từ tàu cá và ghi chép đầy đủ thông tin vào sổ nhật ký theo dõi cuộc gọi thông báo tàu cá cập cảng/rời cảng. Đã tuyên truyền, hướng dẫn cho chủ tàu/thuyền trưởng nắm rõ quy định về cập, rời cảng do đó tỷ lệ tàu cá thông báo cập cảng nhưng không cập giảm dần.
- Công tác thu Nhật ký khai thác (NKKT): Các cảng cá đã thực hiện thu, kiểm tra các thông tin trong NKKT kỹ hơn trước; kiểm tra, đối chiếu thông tin giữa NKKT với Hệ thống giám sát hành trình (GSHT), cơ sở Dữ liệu VNFishbase.
- Công tác giám sát sản lượng bốc dỡ qua cảng: Kỹ năng cán bộ giám sát sản lượng đã được nâng cao hơn trước; thực hiện đúng quy trình, ghi chép đầy đủ thông tin vào sổ theo dõi bốc dỡ, đảm bảo dễ truy xuất, báo cáo.
- Truy cập cơ sở dữ liệu Vnfishbase và Hệ thống GSHT để kiểm tra: Các cảng cá đã được phân cấp quyền để cập nhật dữ liệu về sản lượng khai thác bốc dỡ qua cảng (được phân cấp từ tháng 2/2022). Cán bộ cảng cá đã cập nhật sản lượng thủy sản bốc dỡ qua cảng vào cơ sở dữ liệu quốc gia VNFishbase; khai thác, sử dụng hệ thống GSHT để kiểm tra đối chiếu với nhật ký khai thác thủy sản.
b) Đối với các Tổ công tác Liên ngành
- Về tổ chức thực thi nhiệm vụ:  Các Tổ đã xây dựng lịch trực và phân công nhiệm vụ cho các thành viên.
- Công tác kiểm tra tàu cá cập cảng, rời cảng: Kỹ năng của cán bộ kiểm tra tàu cá cập, rời cảng được nâng cao hơn trước; thực hiện đúng quy trình kiểm tra tàu cá cập, rời cảng. Hồ sơ kiểm tra tàu cá cập, rời cảng đảm bảo đầy đủ thông tin, dễ truy xuất.
Các Tổ công tác Liên ngành đã khai thác dữ liệu Hệ thống GSHT để kiểm tra, đối chiếu các thông tin khi tàu cá câp, rời cảng. Bước đầu đã lập Biên bản làm việc đối với các tàu cá vi phạm khai thác IUU để nhắc nhở.
c. Tồn tại, hạn chế
Mặc dù các đơn vị đã triển khai thực hiện nhiệm vụ và đạt được một số kết quả như trên, tuy nhiên qua kiểm tra thực tế cho thấy vẫn còn tồn tại và hạn chế:
(1) Cảng Lạch Quèn chưa được cấp Giấy chứng nhận an toàn thực phẩm theo quy định; cảng cá Cửa Hội thiếu hồ sơ về Phòng cháy chữa cháy.
(2) Qua kiểm tra hồ sơ, xảy ra tình trạng cán bộ không có trong lịch trực vẫn thực thi nhiệm vụ nhưng không có văn bản thay thế người trực.
(3) Việc ghi chép của cán bộ Cảng cá và Tổ Liên ngành còn có những sai sót, thông tin giữa các tài liệu lưu trữ chưa thống nhất.
(4) Công tác kiểm tra NKKT chưa đảm bảo đầy đủ, vẫn còn một số NKKT ghi sai sót, thiếu thông tin.
(5) Công tác xử lý các hành vi vi phạm khai thác IUU mới chỉ dừng ở mức độ nhắc nhở, chưa lập biên bản vi phạm hành chính chuyển các cơ quan chức năng xử phạt theo Nghị định số 42/2019/NĐ-CP (đặc biệt đối với các hành vi: sai vùng khai thác, mất kết nối VMS...) để đảm bảo tính răn đe. Chưa theo dõi và lập danh sách tàu cá có nguy cơ vi phạm IUU, báo cáo cơ quan thẩm quyền thông báo.
(6) Tình trạng tàu cá cập cảng để bốc dỡ thủy sản có tăng lên, tuy nhiên chưa đảm bảo kiểm soát được sản lượng khai thác của các tàu cá trên địa bàn; có những thời điểm không có tàu cá cập cảng (từ tháng 2-4/2022 ở cảng Cửa Hội), số tàu cập rất ít (cảng cá Quỳnh Phương từ 1/1/2022 đến 20/6/2022 chỉ có 35 tàu cập bốc dỡ thủy sản, trong đó tháng 2/2022 không có tàu cập cảng, tháng 3/2022 có 01 lượt cập cảng).
(7) Công tác kiểm tra tàu cá cập cảng, rời cảng có lúc chưa nghiêm túc (cảng Cửa Hội sử dụng mẫu Biên bản kiểm tra rời cảng không đúng với Thông tư số 01/2022/TT-BNNPTNT).  
d. Nguyên nhân
- Ý thức, trách nhiệm của một số cán bộ cảng cá, Tổ công tác Liên ngành chưa cao, có lúc còn sơ sài trong công tác kiểm tra, giám sát.
- Năng lực về sử dụng máy tính của một số cán bộ Cảng cá còn hạn chế, việc sử dụng các phần mềm để khai thác dữ liệu (VNFishbase, GSHT, Excel..) để phục vụ cho công tác kiểm tra, giám sát cũng như thống kê, báo cáo gặp nhiều khó khăn. Chưa hiểu rõ về đặc điểm nghề khai thác, xác định vùng khai thác nên việc hướng dẫn cũng như kiểm tra NKKT có lúc chưa đảm bảo chính xác, đúng với thực tế.
- Sự phối hợp giữa các lực lượng Thủy sản, Biên phòng, Tổ công tác Liên ngành trong kiểm tra, kiểm soát tàu cá ra, vào cửa lạch chưa được thường xuyên.
- Ý thức của ngư dân trong việc chấp hành các quy định của nhà nước còn hạn chế, đặc biệt là khai thác sai vùng, mất kết nối thiết bị VMS, thông báo tàu cá rời cảng/cập cảng trước 01 giờ, chưa nghiêm túc trong việc ghi, nộp nhật ký/báo cáo KTTS.
- Tại cảng cá Lạch Quèn năng lực đáp ứng cho tàu cá chỉ ở mức 20-30 tàu cập để bốc dỡ thủy sản/ngày; trong khi đó số lượng tàu cá trên địa bàn nhiều và thường có nhu cầu cập cảng để bốc dỡ thủy sản trong cùng thời điểm nên đã ảnh hưởng đến kiểm soát sản lượng khai thác. Ngược lại, tại cảng cá Quỳnh Phương các tàu cá neo đậu, nằm bờ, sửa chữa trong thời gian dài tại cảng, không đúng chức năng cập cảng bốc dỡ thủy sản nên các tàu cá khác có nhu cầu bốc dỡ thủy sản ngại cập cảng, sợ va chạm.
Kết luận buổi làm việc, để kịp thời chấn chỉnh những tồn tại nêu trên, đ/c Trần Xuân Học – Phó Giám đốc Sở yêu cầu các đơn vị thực hiện nghiêm túc các nội dung sau:
1. Đối với Ban quản lý Cảng cá
- Hoàn thiện các thủ tục pháp lý, cơ sở hạ tầng đối với cảng cá theo quy định của Luật Thủy sản 2017, Nghị định 26/2019/NĐ-CP cấp giấy ATTP đối cảng cá Lạch Quèn.
- Sử dụng hiệu quả, đúng mục đích của các cảng cá, tạo điều kiện thuận lợi cho tàu cá bốc dỡ sản phẩm cập cảng; không cho tàu cá cập cảng sửa chữa dài ngày đậu trong khu vực cảng (như thực trạng tại cảng cá Quỳnh Phương).
- Chỉ đạo các cảng cá khắc phục ngay các tồn tại đã được Đoàn kiểm tra chỉ ra trong Biên bản kiểm tra; rà soát hồ sơ IUU đảm bảo chính xác về số liệu, đầy đủ các thông tin.
- Tăng cường kiểm tra, chỉ đạo các cảng cả thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ được giao tại Kế hoạch số 62/KH-UBND ngày 27/01/2022 của UBND tỉnh Nghệ An; công tác thu, kiểm tra NKKT, truy cập Hệ thống GSHT, giám sát sản lượng bốc dỡ thủy sản qua cảng. Phối hợp với Tổ công tác Liên ngành, Đồn/Trạm Biên phòng xử nghiêm đối với những tàu cá vi phạm nhiều lần theo Nghị định số 42/2019/NĐ-CP. Theo dõi và lập danh sách tàu cá nguy cơ vi phạm IUU và tham mưu Sở Nông nghiệp và PTNT ban hành thông báo.
- Nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc kiểm tra NKKT, giám sát sản lượng bốc dỡ qua cảng; nâng cao năng lực về sử dụng máy tính; công tác thống kê, báo cáo.
- 15 ngày 1 lần, báo cáo danh sách tàu cá cập – rời cảng, danh sách tàu cá không cập cảng nhưng nộp nhật ký khai thác về Chi cục Thủy sản để kiểm tra, đối chiếu.
- Phối hợp với Trạm kiểm soát Biên phòng trao đổi thông tin về tàu cá nộp NKKT, đảm bảo các tàu cá có giấy xác nhận của cảng đã hoàn thành nộp NKKT mới được phép xuất lạch đi khai thác.
- Phối hợp với chính quyền địa phương tuyên truyền cho các tàu cá cập cảng theo quy định đảm bảo giám sát sản lượng khai thác trên địa bàn.
2. Đối với các Tổ công tác Liên ngành thanh tra kiểm soát nghề cá
- Nghiêm túc, khắc phục ngay các tồn tại đã được Đoàn kiểm tra chỉ ra trong Biên bản kiểm tra; rà soát hồ sơ IUU đảm bảo đầy đủ thông tin, chính xác số liệu.
- Thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ được giao tại Kế hoạch số 62/KH-UBND; kiểm tra kỹ NKKT và đối chiếu với Hệ thống GSHT. Thực thi nhiệm vụ đúng theo lịch được phân công; yêu cầu cán bộ Tổ trực tiếp kiểm tra tàu cá cập, rời cảng; lập biên bản kiểm tra và ký vào biên bản kiểm tra.
- Phối hợp với cảng cá có biện pháp xử lý đối với những tàu cá vi phạm (không thông báo cập/rời cảng, sai vùng khai thác, mất tín hiệu kết nối GSHT...). Lập Biên bản vi phạm hành chính đối với những tàu cá vi phạm nhiều lần, tham mưu cho cơ quan có thẩm quyền xử phạt theo Nghị định số 42/2019/NĐ-CP để đảm bảo tính răn đe. Theo dõi, lập danh sách tàu cá có nguy cơ cao vi phạm IUU và tham mưu Sở Nông nghiệp & PTNT ban hành thông báo.
- Phối hợp với Trạm kiểm soát Biên phòng kiểm tra, giám sát chặt chẽ tàu cá ra, vào cảng, cửa lạch; xử lý nghiêm đối với tàu cá chưa đủ điều kiện theo quy định.
- Hàng tuần, báo cáo danh sách tàu cá kiểm tra cập – rời cảng về Chi cục Thủy sản để kiểm tra, đối chiếu.
- Tuyên truyền cho các chủ tàu/thuyền trưởng chấp hành các quy định của Nhà nước (lắp và duy trì hoạt động thiết bị GSHT khi tham gia khai thác thủy sản, ghi NKKT đầy đủ, chính xác, thông báo cho cảng cá trước 01 giờ tàu rời/cập cảng..).
3. Đối với Chi cục Thủy sản
- Tăng cường công tác tuyên truyền cho ngư dân hiểu và nắm rõ các quy định của Nhà nước trong hoạt động khai thác thủy sản.
- Tham mưu Sở Nông nghiệp và PTNT thông báo danh sách tàu cá co nguy cơ vi phạm IUU. Tiếp tục kiểm tra thường xuyên, đột xuất để tiếp tục chấn chỉnh hoạt động tại Cảng, tại Tổ IUU.
- Tăng cường chốt chặn cửa lạch để kiểm tra, kiểm soát tàu cá ra, vào cửa lạch; ngăn chặn, xử lý nghiêm các tàu chưa đủ điều kiện theo quy định.
- Phối hợp với các Đồn, Trạm kiểm soát Biên phòng tuyến biển kiểm tra, kiểm soát tàu cá chặt chẽ ra, vào cảng cá, cửa lạch theo kế hoạch phối hợp đã ký giữa hai lực lượng.
- Xây dựng kế hoạch kinh phí đầu tư mua sắm lắp đặt hệ thống camera đặt tại các cảng cá phục vụ công tác kiểm tra tàu cá cập/rời cảng.
- Tổ chức thanh tra, kiểm tra các cảng cá, tàu cá theo chức năng, nhiệm vụ, phạm vi quản lý và xử lý nghiêm theo quy định.
- Tổ chức tập huấn, hướng dẫn cho các tổ, cảng về chuyên môn nghiệp vụ liên quan (đặc điểm nghề khai thác, ghi nhật ký khai thác,…)
- Bổ sung trách nhiệm của chính quyền phương trong kết luận để nâng cao công tác phối hợp và trách nhiệm trong công tác IUU.
4. Đối với các Đồn, Trạm kiểm soát Biên phòng tuyến biển
- Đề nghị phối hợp chặt chẽ với ngành Nông nghiệp và PTNT trong công tác chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định.
- Chỉ đạo các Trạm kiểm soát Biên phòng tuyến biển cương quyết không cho tàu cá xuất lạch đi khai thác khi chưa đủ các điều kiện theo quy định.
- Tăng cường công tác tuyên truyền, kiểm tra kiểm soát, hướng dẫn cho tàu cập cảng theo quy định.

                                                                  Tin bài: Phan Tiến Chương - 
Ban quản lý Cảng cá Nghệ An
 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập11
  • Hôm nay2,017
  • Tháng hiện tại23,584
  • Tổng lượt truy cập1,836,466
Tin nóng
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây