BÁO CÁO Kết quả triển khai nhiệm vụ chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định tháng 4/2023
Thứ tư - 19/04/2023 23:181.1380
Thực hiện Công văn số 2316/BNN-TCTS ngày 15/4/2022 của Bộ Nông nghiệp và PTNT, Công văn số 2032/UBND-NN ngày 29/3/2022 của UBND tỉnh Nghệ An về việc báo cáo kết quả triển khai nhiệm vụ chống khai thác IUU.
Sở Nông nghiệp và PTNT Nghệ An (Cơ quan thường trực Ban chỉ đạo tỉnh Nghệ An về IUU) báo cáo kết quả triển khai chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định của tỉnh Nghệ An trong tháng 4/2023 (từ ngày 21/3/2023 đến 19/4/2023) như sau:
I. TÌNH HÌNH KHAI THÁC THỦY SẢN CỦA ĐỊA PHƯƠNG 1. Tổng quan chung Nghệ An có chiều dài bờ biển trên 82 km, diện tích vùng biển 4.230 hải lý vuông, dọc bờ biển có 6 cửa lạch thuận lợi cho tàu thuyền ra vào cũng như neo đậu tránh trú ẩn. Với vị trí địa lý kinh tế - chính trị hết sức thuận lợi, vùng biển được xem là một cửa ngõ quan trọng, là “mặt tiền” không chỉ riêng của Nghệ An mà cả khu vực Bắc Trung Bộ, là cầu nối thực hiện các hoạt động giao lưu và hội nhập quốc tế. Nghệ An xác định phát triển vùng biển trở thành vùng kinh tế mũi nhọn, trong đó ưu tiên phát triển các ngành: dịch vụ cảng biển; dịch vụ du lịch biển; công nghiệp đóng và sữa chữa tàu thuyền; khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản. Với những tiềm năng sẵn có, cùng các chính sách hỗ trợ, sự chỉ đạo quyết liệt từ Trung ương xuống địa phương và sự nỗ lực của người dân có thể nói trong những năm qua, kinh tế biển nói chung, kinh tế thủy sản nói riêng có những bước phát triển đáng ghi nhận. Cơ cấu kinh tế nội ngành tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, đến cuối năm 2022: Nông nghiệp 77,52%, lâm nghiệm 6,18%, ngư nghiệp: 16,30%. Tỷ trọng của ngành khai thác trong ngành thủy sản chiếm 63%. 2. Tàu cá, lao động khai thác thủy sản - Số lượng tàu cá thực tế, cơ cấu theo chiều dài tàu, theo nghề khai thác: Toàn tỉnh có 3.382 tàu thuyền khai thác thủy sản. Trong đó, tàu cá thuộc diện phải đăng ký (có chiều dài lớn nhất từ 6m trở lên) đến ngày 19/4/2023 là 2.485 chiếc. Nghề khai thác hải sản khá đa dạng, với nhiều loại ngư lưới cụ, tập trung chủ yếu vào 07 nhóm nghề. Trong tổng số 2.485 chiếc tàu cá thuộc diện phải đăng ký thì nghề lưới Kéo với 690 tàu (chiếm 27,77% tổng số), nghề lưới Vây với 147 tàu (chiếm 5,91% tổng số), nghề lưới Rê với 826 tàu (chiếm 33,24% tổng số), nghề Câu với 116 tàu (chiếm 4,67% tổng số), nghề Chụp với 545 tàu (chiếm 21,93% tổng số), nghề dịch vụ hậu cần với 33 tàu (chiếm 1,33% tổng số) và nghề khác với 128 tàu (chiếm 5,15% tổng số). Cơ cấu các nghề khai thác từng bước ổn định về số lượng tàu và phát triển chiều sâu. - Lao động khai thác thủy sản Lao động khai thác thủy sản không ngừng nâng cao năng lực trình độ chuyên môn, đến 19/4/2023 số lượng lao động tham gia khai thác thủy sản toàn tỉnh trên 16.760 người. Trong đó, số lao động khai thác vùng khơi là 8.511 người, số lao động khai thác vùng lộng là 3.109 người, số lao động khai thác vùng ven bờ là 5.140 người. Hàng năm có khoảng 700 ngư dân được đào tạo cấp văn bằng, chứng chỉ các chức danh lao động trên tàu cá theo quy định. Hiện tỷ lệ thuyền viên đã có chứng chỉ chuyên môn đạt trên 90% số lượng. Tuy nhiên, do hiệu quả hoạt động khai thác thời gian gần đây không ổn định, không đảm bảo nguồn thu nhập, đặc biệt là rủi ro cao nên nhiều lao động đã chuyển đổi sang các nghề sản xuất khác, chủ tàu phải thuê lao động mới nên xảy ra tình trạng một số tàu cá còn thiếu chứng chỉ chuyên môn. 3. Sản lượng khai thác - Tổng sản lượng khai thác năm 2022 đạt 201.198,1 tấn, giá trị đạt 4.788,07 tỷ đồng, trong đó khai thác biển đạt 193.885,3 tấn, bằng 106,53% so với kế hoạch năm, bằng 100,47% so với cùng kỳ năm trước; khai thác nội đồng đạt 7.312,8 tấn, bằng 146,26% so với kế hoạch năm, bằng 105,68% so với cùng kỳ năm trước. - Kế hoạch năm 2023: Sản lượng khai thác: 192.000 tấn, trong đó: khai thác biển: 187.000 tấn, khai thác nội đồng: 5.000 tấn. - Sản lượng khai thác thủy sản trong tháng 4/2023 đạt 21.520 tấn, giá trị ước đạt 503 tỷ đồng; trong đó khai thác biển đạt 20.949 tấn, bằng 11,20% so với kế hoạch năm, bằng 96,89% so với cùng kỳ năm trước; khai thác nội đồng đạt 571 tấn, bằng 11,42% so với kế hoạch năm, bằng 100,88% so với cùng kỳ năm trước. - Lũy kế đến 19/4/2023, sản lượng khai thác đạt 58.386/KH 192.000 tấn, giá trị ước đạt 1.308 tỷ đồng, đạt 30,41% so với kế hoạch năm. Trong đó khai thác biển đạt 56.073 tấn, bằng 29,98% so với kế hoạch năm, bằng 93,62% so với cùng kỳ năm trước; khai thác nội đồng đạt 2.313 tấn, bằng 103,63% so với cùng kỳ năm trước. 4. Cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá - Về cảng cá: đã có 04 cảng cá được Nhà nước đầu tư xây dựng (gồm cảng cá Quỳnh Phương, cảng cá Lạch Quèn, cảng cá Lạch Vạn và cảng cá Cửa Hội). Đến thời điểm hiện tại, cả 4 cảng cá trên đã được tỉnh Nghệ An công bố mở cảng, đều là cảng cá loại II. Trong số các cảng cá này, đã có 03 cảng cá được công bố là cảng cá chỉ định, có đủ hệ thống xác nhận nguồn gốc thủy sản từ khai thác. - Về khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá: Nghệ An được quy hoạch 05 khu neo đậu tránh trú bão (KNĐTTB) với tổng sức chứa cho tàu cá vào tránh trú bão là 3.100 chiếc; trong đó có 01 KNĐTTB cấp vùng và 04 KNĐTTB cấp tỉnh. Đến nay, cả 05 KNĐTTB cho tàu cá trên địa bàn tỉnh Nghệ An đều đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT công bố đủ điều kiện hoạt động với tổng sức chứa đạt 2.000 tàu thuyền các loại, bằng 65% công suất neo đậu so với quy hoạch. II. KẾT QUẢ CHỐNG KHAI THÁC IUU CỦA ĐỊA PHƯƠNG 1. Chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Trong hơn 5 năm qua, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An đã nỗ lực chỉ đạo thực hiện hàng loạt các biện pháp nhằm khắc phục cảnh báo ”Thẻ vàng” của EC và xem đây là nhiệm vụ quan trọng cũng như cơ hội để chấn chỉnh công tác quản lý ngành thủy sản tỉnh nhà. - Thực hiện ý kiến Chỉ đạo của Thường trực Ban Bí thư tại Văn bản số 81-CV/TW ngày 20/3/2020 về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hiệu quả công tác chống khai thác IUU, Công văn số 1063/TTg-NN ngày 12/8/2020 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện Công văn số 81-CTV/TW của Thường trực Ban Bí thư, UBND tỉnh đã có các văn bản chỉ đạo các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thị ven biển nghiêm túc thực hiện và coi đây là nhiệm vụ ưu tiên, cấp bách. - Thực thi Luật Thủy sản và các khuyến nghị của EC về chống khai thác IUU, Sở Nông nghiệp và PTNT đã tham mưu UBND tỉnh ban hành 59văn bản (trong đó có 04 văn bản quy phạm pháp luật gồm 02 Nghị quyết và 02 Quyết định) để chỉ đạo, điều hành công tác chống khai thác IUU, trong đó giao trách nhiệm cụ thể cho các sở, ban, ngành và UBND các huyện, thị ven biển. - Để hỗ trợ một phần kinh phí cho ngư dân lắp đặt và duy trì hoạt động thiết bị giám sát hành trình, UBND tỉnh đã tham mưu cho Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị quyết số 02/2020/NQ-HĐND ngày 22/7/2020, Nghị quyết số 26/2020/NQ-HĐND về hỗ trợ kinh phí mua, lắp đặt, vận hành thiết bị giám sát hành trình và cước phí thuê bao dịch vụ cho thiết bị giám sát hành trình lắp đặt trên tàu cá có chiều dài lớn nhất từ 15m trở lên trên địa bàn tỉnh Nghệ An. - Nhằm tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong khai thác thủy sản cho bà con ngư dân do dịch Covid -19 bùng phát và kéo dài, chi phí chuyến biển ngày càng tăng lên do giá nhiên liệu những tháng đầu năm 2022 liên tục tăng cao, Sở Nông nghiệp và PTNT đã xây dựng “Nghị quyết về chính sách hỗ trợ cho tàu cá khai thác thủy sản vùng khơi trên địa bàn tỉnh Nghệ An”. Trong tháng 4/2023, trên cơ sở ý kiến góp ý của các Sở, ngành, địa phương có liên quan, Sở Nông nghiệp và PTNT đã có báo cáo tổng hợp tiếp thu, giải trình các ý kiến vào hồ sơ Dự thảo Nghị quyết và trình Sở Tư pháp thẩm định trước khi trình Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua. - Chỉ đạo quyết liệt việc khắc phục các tồn tại, hạn chế sau khi có Kết luận của Đoàn kiểm tra Bộ Nông nghiệp và PTNT về công tác chống khai thác IUU tại Nghệ An. 2. Hoạt động của Ban chỉ đạo tỉnh Nghệ An về IUU Ban chỉ đạo tỉnh về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (gọi tắt là Ban Chỉ đạo IUU) được thành lập tại Quyết định số 3787/QĐ-UBND ngày 26/9/2019 của UBND tỉnh Nghệ An; hoạt động theo Quy chế được ban hành tại Quyết định số 128/QĐ-UBND ngày 13/01/2020 của UBND tỉnh Nghệ An. Ban chỉ đạo IUU tỉnh được kiện toàn, thay đổi thành viên theo các Quyết định số 25/QĐ-UBND ngày 06/01/2020, số 547/QĐ-UBND ngày 09/3/2021, số 1692/QĐ-UBND ngày 01/6/2021, số 3100/QĐ-UBND ngày 23/8/2021, số 3942/QĐ-UBND ngày 13/12/2022. Thực hiện Quy chế hoạt động, trong hơn 5 năm qua Ban chỉ đạo IUU đã: + Tổ chức, tham gia 17 cuộc họp, kiểm tra để đánh giá tình hình, kết quả đạt được, các tồn tại, hạn chế và nguyên nhân, đề ra các nhiệm vụ, giải pháp để chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra việc tổ chức thực hiện. Kết luận mỗi cuộc họp được UBND tỉnh kịp thời ban hành thông báo để các sở, ban, ngành, địa phương và đơn vị liên quan quán triệt, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. + Sở Nông nghiệp và PTNT (Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo) hàng năm tổ chức các Đoàn công tác kiểm tra tại các địa phương, Tổ Liên ngành, Cảng cá (12 đoàn) và kịp thời ban hành văn bản chỉ đạo, đôn đốc, hướng dẫn tổ chức triển khai Luật Thủy sản, khắc phục các tồn tại, hạn chế trong thực hiện nhiệm vụ chống khai thác IUU. + Ký kết Kế hoạch phối hợp giữa BTL Vùng Cảnh sát biển 1 và Sở Nông nghiệp & PTNT Nghệ An trong thực hiện nhiệm vụ ngăn chặn tàu cá Việt Nam vi phạm vùng biển nước ngoài khai thác hải sản trái phép và cử cán bộ trực tiếp tham gia tuần tra, kiểm tra, kiểm soát trên tàu Cảnh sát biển. + Chỉ đạo 05 (năm) huyện/thị xã ven biển thành lập Ban Chỉ đạo về IUU để chỉ đạo công tác IUU tại địa phương được tập trung và sâu sát hơn. + Ban hành Kế hoạch số 997/KH-BCĐ ngày 27/3/2023 về Kế hoạch Đoàn công tác Ban chỉ đạo về IUU tỉnh làm việc với UBND các huyện, thị xã, Chi cục Thủy sản, Ban quản lý Cảng cá về chống khai thác IUU trên địa bàn tỉnh Nghệ An. + Cử cán bộ tham gia thực hiện Kế hoạch tuần tra liên hợp trên vùng biển lân cận đường phân định Vịnh Bắc Bộ Việt Nam – Trung Quốc lần 1 năm 2023. - Công tác tổ chức, bộ máy và phân công nhiệm vụ chống khai thác IUU trong những năm qua được UBND tỉnh Nghệ An thực hiện nghiêm túc, giao nhiệm vụ cụ thể cho các Sở Ban Ngành liên quan. Ngoài hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về thủy sản (gồm: Sở Nông nghiệp và PTNT, Chi cục Thủy sản, Chi cục Chăn nuôi và Thú y, Chi cục quản lý chất lượng nông, lâm sản & thủy sản, Ban quản lý Cảng cá Nghệ An và 21 phòng Nông nghiệp/Kinh tế các huyện, thành, thị) còn có Ban chỉ đạo chống khai thác IUU cấp tỉnh, cấp huyện; Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh; Sở Ngoại vụ; Sở Thông tin và Truyền thông; Công an tỉnh và 04 Tổ liên ngành thanh tra, kiểm soát nghề cá đặt tại 4 cảng cá (Lạch Cờn, Lạch Quèn, Lạch Vạn, Lạch Hội). 3. Kết quả thực hiện 3.1. Công tác quản lý tàu cá - Việc công bố hạn ngạch giấy phép khai thác vùng lộng, ven bờ và ban hành tiêu chí đặc thù của địa phương; hạn ngạch giấy phép vùng khơi được giao được thực hiện tại Quyết định số 5423/QĐ-UBND ngày 27/12/2019 về việc công bố hạn ngạch Giấy phép khai thác thủy sản trên biển tại vùng lộng và vùng ven bờ của tỉnh Nghệ An và Quyết định số 18/2020/QĐ-UBND ban hành Quy định tiêu chí đặc thù và quy trình xét duyệt hồ sơ đề nghị cấp văn bản chấp thuận đóng mới, cải hoán, thuê, mua tàu cá hoạt động trên biển thuộc địa bàn tỉnh Nghệ An (đã được sửa đổi, bổ sung tại Quyết định số 39/2022/QĐ-UBND ngày 08/8/2022). Trên cơ sở hạn ngạch được phân bổ, Nghệ An được cấp 1.242 Giấy phép khai thác thủy sản ở vùng khơi; 654 Giấy phép khai thác vùng lộng; 1.953 Giấy phép khai thác thủy sản vùng ven bờ với các nghề sau: lưới kéo, lưới rê, lưới vây, câu, chụp, hậu cần đánh bắt nguồn lợi thủy sản, lồng bẫy và nghề khác. - Kết quả thực hiện đăng ký tàu cá, đăng kiểm; đánh dấu tàu cá; cấp giấy chứng nhận an toàn thực phẩm: + Công tác đăng ký tàu cá: Số giấy chứng nhận đăng ký tàu cá đã cấp trong tháng 4/2023 (đến ngày 19/4/2023) là 40 chiếc. Trong đó: loại Lmax 06-<12m: 01 chiếc, loại Lmax 12-<15m: 02 chiếc, loại Lmax 15-<24m: 34 chiếc, loại Lmax 24-<30m: 03 chiếc. Đến nay, tổng số tàu cá toàn tỉnh đã được cấp đăng ký 2.485 chiếc, đạt 100%. + Công tác đăng kiểm tàu cá: số tàu còn hạn đăng kiểm là 1.071/1.670 chiếc thuộc diện phải đăng kiểm, đạt 64,13% số tàu ≥ 12m, đạt 100% số tàu đang hoạt động khai thác. + Công tác đánh dấu tàu cá: Hiện tại công tác đánh dấu tàu cá tại các địa phương đã được thực hiện đảm bảo theo đúng quy định + Cấp giấy chứng nhận an toàn thực phẩm tàu cá: Số giấy chứng nhận ATTP tàu cá được cấp trong tháng 4/2023 là: 73 tàu (cấp mới 40 cơ sở, cấp lại 33 cơ sở). Tính đến ngày 19/4/2023 số tàu cá đã cấp giấy chứng nhận ATTP còn hạn là 943/1.131 tàu, đạt 83,38% so với tổng số tàu cá phải cấp (so với tháng 3/2023, số tàu cá đã cấp giấy chứng nhận ATPP còn hạn giảm 66 tàu do đến thời điểm báo cáo 66 tàu cá đã hết hạn giấy chứng nhận ATTP và chưa làm thủ tục cấp lại). - Kết quả thực hiện quản lý, cấp giấy phép khai thác thủy sản: + Trong tháng 4/2023 đã cấp 23 giấy phép (trong đó cấp lại 22 giấy). Đến nay tổng số tàu đã cấp phép đang còn hạn 2.219/2.485 tàu, đạt 89,30% số tàu ≥ 6m, đạt 100% số tàu đang hoạt động khai thác. (Chi tiết tại phụ lục 1 kèm theo). - Kết quả thực hiện cập nhật dữ liệu tàu cá trên VN-Fishbase: Việc cập nhật dữ liệu tàu cá lên phần mềm VNFishbase được thực hiện thường xuyên và đầy đủ. Tổng số tàu cá đã cập nhật lên phần mềm đạt 100% tổng số tàu cá đã đăng ký. 3.2. Kết quả lắp đặt thiết bị giám sát hành trình tàu cá - Tính đến ngày 18/4/2023, tỉnh Nghệ An có 1.108/1.131 tàu cá đã lắp đặt thiết bị GSHT, đạt tỷ lệ 97,97%, trong đó: tàu cá có chiều dài lớn nhất từ 15-24m: 892/910, đạt 98,02%; Tàu cá có chiều dài lớn nhất từ 24m trở lên: 216/221, đạt 97,74%.Tuy nhiên trên Hệ thống Giám sát tàu cá, số lượng tàu cá đã lắp đặt VMS của tỉnh Nghệ An là 1.078 chiếc, đạt 95,31%. - Số tàu cá chưa thực hiện việc lắp đặt VMS: 23 chiếc, chiếm tỷ lệ 2,03%; (Danh sách các tàu cá chưa lắp thiết bị VMS tại Phụ lục 3 kèm theo) 3.3. Về theo dõi, kiểm tra, kiểm soát hoạt động tàu cá thông qua VMS * Công tác tổ chức trực theo dõi, giám sát hoạt động tàu cá: Tổ chức trực ban 24/24 giờ tại Trạm bờ - Chi cục Thủy sản nhằm theo dõi, thông tin cho chủ tàu cá về việc tàu mất kết nối VMS, vượt ranh giới trên biển, yêu cầu thực hiện đúng quy định pháp luật; tổng hợp, lập danh sách và trao đổi thông tin giữa các lực lượng chức năng để phối hợp, xử lý. * Kết quả theo dõi, xử lý: - Số liệu tàu cá mất kết nối GSHT trên biển: Trong tháng 4/2023, số tàu cá mất kết nối VMS trên biển là 1.984 lượt tàu (tàu cá có Lmax từ 15m - 24m: 1.107 lượt tàu; tàu cá có Lmax từ 24m trở lên: 877 lượt tàu). Lũy kế 4 tháng đầu năm 2023: tổng số tàu cá mất kết nối VMS trên biển là 5.347 lượt tàu (tàu cá có Lmax từ 15m - 24m: 3.202 lượt tàu, tàu cá Lmax từ 24m trở lên: 2.145 lượt tàu) Trong đó, số tàu cá mất kết nối quá 10 ngày trên biển trong tháng 4/2023 là 50 lượt tàu (tàu cá có Lmax từ 15m - 24m: 37 lượt tàu; tàu cá có Lmax ≥ 24m: 13 lượt tàu). Tổng số tàu cá mất kết nối quá 10 ngày trên biển trong 4 tháng đầu năm 2023: 233 lượt tàu ((tàu cá có Lmax từ 15m - 24m: 174 lượt tàu; tàu cá có Lmax ≥ 24m: 59 lượt tàu) + Nguyên nhân: Thiết bị GSHT bị hỏng, hoạt động chập chờn; nguồn điện cung cấp cho thiết bị GSHT hoạt động bị hỏng, một số tàu cá khi gặp thời tiết xấu trên biển nên chủ tàu ngắt hệ thống điện để đảm bảo an toàn, chống cháy nổ, tàu về cảng kết thúc chuyến biển nên chủ tàu tắt nguồn thiết bị, hết hạn cước thuê bao.... + Biện pháp xử lý: Đối với trường hợp tàu cá mất kết nối, cán bộ trực ban sẽ liên lạc để nhắc nhở, yêu cầu các tàu cá kiểm tra lại thiết bị, duy trì hoạt động thiết bị Giám sát hành trình 24/24 từ khi rời cảng đến khi cập cảng theo đúng quy định. Ngoài ra, phát thông báo qua kênh đàm thoại 7918.KHz định kỳ, thường xuyên. Riêng đối với nhóm tàu cá mất kết nối quá 10 ngày: Bước đầu, các cơ quan, đơn vị đã có những biện pháp xử lý: (i) Lập biên bản nhắc nhở; yêu cầu chủ tàu khắc phục, cam kết duy trì hoạt động GSHT theo đúng quy định và chấp hành các quy định khác về hoạt động khai thác hải sản; (ii) Yêu cầu cảng cá không cho tàu cá bốc dỡ thủy sản, xuất lạch khi chưa có biên bản giải trình, làm rõ lý do mất kết nối, chưa nạp cước thuê bao duy trì hoạt động GSHT theo quy định; (iii) Yêu cầu các đơn vị cung cấp GSHT kiểm tra tình trạng hoạt động của thiết bị GSHT để làm rõ nguyên nhân tàu cá mất kết nối. Số tàu cá mất kết nối GSHT quá 10 ngày đã xử lý: 201/233 lượt tàu, chưa xử lý: 32 lượt tàu. - Số liệu tàu cá vượt qua đường ranh giới cho phép trên biển: Trong tháng 4/2023, số tàu cá vượt qua đường ranh giới cho phép trên biển là 15 lượt tàu (tàu cá có Lmax từ 15m - 24m: 07 lượt tàu, tàu cá có Lmax từ 24m trở lên: 08 lượt tàu). Lũy kế 4 tháng đầu năm 2023: số tàu cá vượt qua đường ranh giới cho phép trên biển 48 lượt (tàu cá có Lmax từ 15m - 24m: 20 lượt tàu, tàu cá có Lmax từ 24m trở lên: 28 lượt tàu). + Nguyên nhân: Do ngư trường khai thác xa nên các tàu cá chạy tắt qua đường ranh giới để tiết kiệm nhiên liệu, một số tàu cá bị hỏng thiết bị định vị, hỏng máy thả trôi tàu nên bị trôi dạt qua đường ranh giới cho phép trên biển... + Biện pháp xử lý: Cán bộ trực ban liên lạc với chủ tàu/thuyền trưởng và yêu cầu tàu cá quay lại vùng hoạt động theo quy định; tuyên truyền nhắc nhở thuyền trưởng không khai thác ở vùng biển nước ngoài. Ngoài ra, phát thông báo qua kênh đàm thoại 7918.KHz định kỳ, thường xuyên. Phối hợp với lực lượng Biên phòng cung cấp dữ liệu để xử lý đối với những tàu cá vi phạm theo quy định. (Danh sách chi tiết tại các Phụ lục 4, 5 và 6 kèm theo) 3.4. Về kiểm tra, giám sát tàu cá và sản lượng bốc dỡ qua cảng - Công tác tổ chức kiểm tra, giám sát của BQL cảng cá: Ban Quản lý cảng cá Nghệ An có 04 cảng cá gồm: Cảng cá Cửa Hội, Lạch Vạn, Lạch Quèn, Quỳnh Phương. Tổng số cán bộ, công nhân viên chức toàn Ban Quản lý cảng cá là 30 người, nhân lực tại mỗi cảng từ 5-7 người/cảng. Tại 04 cảng cá được đầu tư các trang thiết bị (hệ thống camera, điện thoại, máy tính, bộ đàm.....) để thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát tàu cá qua cảng. Công tác theo dõi, kiểm tra, kiểm soát hoạt động tàu cá tại cảng cá về cơ bản đã được tổ chức triển khai theo quy định tại Thông tư số 21/2018/TT-BNNPTNT và Thông tư số 01/2022/TT-BNNPTNT. - Kết quả thực hiện kiểm tra, giám sát tại cảng cá: + Số lượt tàu thông báo cập cảng tháng 4/2023 là 305 lượt; số lượt tàu được giám sát là 305 lượt tàu với sản lượng được giám sát là 333,53 tấn; tỷ lệ sản lượng đã giám sát/tổng sản lượng khai thác của địa phương là 333,53/20.949 tấn(đạt tỷ lệ 1,6%). + Lũy kế 4 tháng năm 2023: Số lượt tàu thông báo cập cảng là 722 lượt; số lượt tàu được giám sát là 722 lượt với sản lượng được giám sát là 712,295 tấn; tỷ lệ sản lượng đã giám sát/sản lượng khai thác địa phương là 712,295/56.073 tấn(đạt tỷ lệ 1,27%). + Việc ghi, nộp nhật ký dần được cải thiện hơn, ngư dân đã chủ động ghi nhật ký khai thác và nộp cho cảng cá khá kịp thời, tuy nhiên chất lượng nhật ký khai thác chưa cao (vẫn còn tình trạng ghi số mẻ khai thác ít, số lượng không chính xác, thiếu thông tin,... ). Cảng cá đã tiếp nhận và kiểm tra các thông tin trong nhật ký khai thác, đảm bảo nhật ký khai thác đầy đủ theo đúng quy định. Trong tháng 4/2023 đã thu được 303 nhật ký KTTS. 4 tháng đầu năm 2023 đã thu: 720 nhật ký. - Công tác tổ chức kiểm tra, xử phạt VPHC của văn phòng IUU tại cảng: Hiện có 04 Tổ công tác Liên ngành được bố trí tại 04 cảng cá, mỗi tổ có 5-7 người gồm các lực lượng: Chi cục Thủy sản, Bộ đội Biên phòng, Cảng cá. Các Tổ công tác Liên ngành thực hiện nhiệm vụ theo Kế hoạch Thanh tra, kiểm soát nghề cá do UBND tỉnh ban hành, Thông tư số 21/2018/ TT-BNNPTNT, TT01/2022/TT-BNNPTNT. * Kết quả kiểm tra của các Tổ: - Trong tháng 4/2023 các Tổ đã kiểm tra 309 lượt tàu rời cảng, kiểm tra 201 lượt tàu cá cập cảng với tổng sản lượng thủy sản bốc dỡ qua cảng cá là 265,69 tấn. - Lũy kế 4 tháng đầu năm 2023: các Tổ đã kiểm tra 618 lượt tàu rời cảng, kiểm tra 506 lượt tàu cá cập cảng với tổng sản lượng thủy sản bốc dỡ qua cảng 591,43 tấn. * Về xử phạt: Đối với các tàu cá mất kết nối GSHT, sau khi có Thông báo của Chi cục Thủy sản, các Tổ công tác Liên ngành đã phối hợp với Đồn Biên phòng, Chính quyền địa phương làm việc với các chủ tàu cá để xác định nguyên nhân và có biện pháp nhắc nhở và cam kết không tái phạm. 3.5. Về xác nhận, chứng nhận nguồn gốc thủy sản khai thác Đến nay, Cảng cá và Chi cục Thủy sản chưa nhận được hồ sơ của các tổ chức, cá nhân nào yêu cầu biên nhận, cấp giấy xác nhận nguồn gốc nguyên liệu thuỷ sản, chứng nhận nguồn gốc nguyên liệu thủy sản. 3.6. Về thực thi pháp luật, kiểm tra, xử lý vi phạm - Công tác tổ chức thực hiện: Việc thực thi pháp luật, kiểm tra, xử lý vi phạm trong lĩnh vực khai thác thủy sản được thực hiện chủ yếu bởi Sở Nông nghiệp và PTNT (trực tiếp là Chi cục Thủy sản) và Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh Nghệ An. Tại Chi cục Thủy sản, phòng Thanh tra, pháp chế và 03 Trạm Thủy sản là bộ phận trực tiếp chủ trì thực hiện chức năng, nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra chuyên ngành thủy sản. Số lượng cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành, Kiểm ngư: 17 người. (Trong đó 02 tàu công vụ bố trí 11 người) Để thực hiện nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát trên biển, Chi cục Thủy sản Nghệ An được trang bị 02 tàu Kiểm ngư: KN-688-NA (công suất 1.100cv), VN-93967-KN (công suất 660cv); 02 xuồng công suất 40cv. - Lập danh sách tàu cá vi phạm IUU; danh sách tàu cá có nguy cơ cao vi phạm IUU: định kỳ hàng tuần, hàng tháng lập thống kê, lập danh sách tàu cá vi phạm IUU, tàu cá có nguy cơ cao vi phạm IUU gửi Tổng cục Thủy sản và Sở Nông nghiệp & PTNT 28 tỉnh, thành phố ven biển. - Kết quả ngăn chặn, chấm dứt tình trạng tàu cá Việt Nam vi phạm khai thác hải sản ở vùng biển nước ngoài: Theo Thông báo số 1439/BTL-TM ngày 03/4/2023 thông báo về tình hình tàu cá Việt Nam vi phạm vùng biển nước ngoài khai thác hải sản trái phép (Nghệ An có 06 tàu vi phạm vùng biển Trung Quốc trong tháng 3/2023) và Công văn số 1678/BTL-TM ngày 13/4/2023 về việc tàu cá vi phạm vùng biển nước ngoài (Nghệ An có 07 tàu cá vi phạm vùng biển Trung Quốc) của Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển 1. Sở Nông nghiệp và PTNT và Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh đã chỉ đạo các đơn vị tổ chức tuyên truyền cho ngư dân Việt Nam không vi phạm vùng biển Trung Quốc, theo dõi, giám sát chặt chẽ các tàu cá có nguy cơ cao vi phạm, thông báo, ngăn chặn không để ảnh hưởng đến công tác Đối ngoại quốc phòng trong nhiệm vụ Tuần tra chung liên hợp giữa Cảnh sát biển Việt Nam và Cảnh sát biển Trung Quốc (từ ngày 09/4 – 15/4/2023). Bên cạnh đó, đối với 13 tàu cá vi phạm vùng biển Trung Quốc theo thông báo của Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển 1, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh đang phối hợp với Sở Nông nghiệp và PTNT, các cơ quan, đơn vị và địa phương có liên quan để tiến hành kiểm tra, xác minh và xử lý theo quy định. - Kết quả xử lý đối với các vi phạm về khai thác IUU: + Kết quả tháng 4/2023: Chi cục Thủy sản thành lập 05 đoàn kiểm tra sử dụng tàu kiểm ngư, xuồng công tác thực hiện tuần tra, kiểm soát trên biển 18 ngày công tác, kiểm tra 120 lượt phương tiện. Qua kiểm tra phát hiện và xử lý vi phạm hành chính13 vụ/13 đối tượng/13 phương tiện (tăng 07 vụ/07 phương tiện/07 đối tượng so với tháng 3/2023), xử phạt vi phạm hành chính với số tiền: 47,1 triệu đồng. Tịch thu 01 bộ kích điện. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng chỉ đạo các đồn Biên phòng tuyến biển và Hải đội 2 tổ chức tuần tra, kiểm tra, kiểm soát vùng biển, khu vực cửa sông, cửa lạch, tìm kiếm cứu nạn được 95 đợt/392 lượt cán bộ, chiến sỹ; kiểm tra, kiểm soát xuất, nhập tại cửa sông, cửa lạch và bến đậu được 5.001 lượt phương tiện/28.608 lượt lao động đảm bảo chặt chẽ, đúng quy định. Qua kiểm tra Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh đã phát hiện, xử lý 16 vụ/23 đối tượng/23 phương tiện (tăng 12 vụ/16 đối tượng/16 phương tiện so với tháng 3/2023), xử phạt vi phạm hành chính với số tiền phạt 91,2 triệu đồng. Tịch thu 02 bộ kích điện, 200m dây điện. + Lũy kế 4 tháng đầu năm 2023: Chi cục Thủy sản thành lập 07 đoàn kiểm tra sử dụng tàu kiểm ngư, xuồng công tác thực hiện tuần tra, kiểm soát trên biển 29 ngày công tác, kiểm tra được 201 lượt phương tiện. Qua kiểm tra đã phát hiện và xử lý vi phạm hành chính 27 vụ/27 đối tượng/27 phương tiện, xử phạt vi phạm hành chính: 62 triệu đồng. Tịch thu 01 bộ kích điện. Các Đồn Biên phòng tuyến biển và Hải đội 2 tổ chức phối hợp lực lượng tuần tra, kiểm soát tại các cửa lạch, bãi ngang được 228 đợt/16.310 lượt phương tiện/ 76.603 lượt lao động. Xử phạt vi phạm hành chính 21 vụ/31 đối tượng/31 phương tiện với tổng số tiền xử phạt là 203,2 triệu đồng. Tịch thu 02 bộ kích điện, 200m dây điện. 3.7. Công tác tập huấn, truyền thông về IUU Tiếp tục thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đến các chủ tàu, ngư dân thực hiện tốt Luật Thủy sản năm 2017, các quy định về chống khai thác IUU và các quy định khác của pháp luật về thủy sản; tích cực tuyên truyền, thông báo cho ngư dân về thời gian tuần tra liên hợp giữa Cảnh sát Việt Nam – Trung Quốc và tình hình tàu cá vi phạm vùng biển nước ngoài; vận động ngư dân tiếp tục bám biển khai thác thủy sản trên các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền của Việt Nam, chấp hành nghiêm các quy định về khai thác hải sản, không sang phía Đông đường phân định Vịnh Bắc bộ đánh bắt hải sản. Chi cục Thủy sản đã phát 120 tờ rơi tuyên truyền về Luật Thủy sản và các quy định về chống khai thác IUU cho các chủ tàu, thuyền trưởng; Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh tổ chức Hội nghị sơ kết rút kinh nghiệm về việc thực hiện Kế hoạch số 277/KH-BĐBP ngày 19/01/2023 của Bộ Tư lệnh BĐBP về chống khai thác IUU năm 2023 và ngăn chặn, chấm dứt tình trạng tàu cá Việt Nam khai thác hải sản trái phép ở vùng biển nước ngoài trước ngày 31/3/2023; tổ chức tập huấn tuyên truyền được 06 buổi/273 lượt ngư dân tham gia; phát tờ rơi tuyên truyền cho 619 chủ tàu đi khai thác hải sản về các nội dung chống khai thác IUU, không xâm phạm vùng biển nước ngoài và các quy định về lắp đặt, duy trì thiết bị giám sát hành trình. III. ĐÁNH GIÁ CHUNG 1. Kết quả đạt được trong tháng Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Ban Chỉ đạo IUU tỉnh cùng với sự nỗ lực của các Sở, ban, ngành, chính quyền địa phương, công tác chống khai thác IUU trong tháng đã đạt được một số kết quả: UBND tỉnh Nghệ An đã ban hành Kế hoạch số 181/KH-UBND về triển khai thực hiện Đề án “Phòng, chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định đến năm 2025”để chỉ đạo các Sở, ngành, đơn vị triển khai thực hiện; Ban Chỉ đạo về IUU cấp tỉnh đã ban hành Kế hoạch Đoàn công tác Ban chỉ đạo về IUU tỉnh làm việc với các đơn vị, địa phương về chống khai thác IUU trên địa bàn tỉnh Nghệ An; chỉ đạo các đơn vị, lực lượng tích cực tuyên truyền, vận động ngư dân tiếp tục bám biển khai thác thủy sản trên các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền của Việt Nam, chấp hành nghiêm các quy định về khai thác hải sản, không sang phía Đông đường phân định Vịnh Bắc bộ đánh bắt hải sản; thực hiện tuần tra, kiểm tra, kiểm soát trên biển có sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị, lực lượng và chính quyền địa phương có liên quan nhằm ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi khai thác IUU theo quy định; các tàu cá ra vào cảng cũng như sản lượng khai thác thủy sản bốc dỡ qua cảng được kiểm soát, giám sát chặt chẽ; hệ thống giám sát hành trình tàu cá tại Trạm Bờ của Chi cục Thủy sản được phân công trực ban đảm bảo 24/7; công tác kiểm tra, xác minh và xử lý đối với các tàu cá vi phạm vùng biển nước ngoài được quan tâm thực hiện. 2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân 2.1. Tồn tại, hạn chế - Chưa hoàn thành việc lắp đặt thiết bị VMS theo quy định tại Nghị định số 26/2019/NĐ-CP của Chính phủ (hiện tại còn 23 tàu chưa lắp, chiếm tỷ lệ 2,03%). - Một số tàu cá đã hết hạn đăng kiểm nhưng không làm thủ tục đăng kiểm nên tỷ lệ đăng kiểm vẫn còn thấp. - Vẫn còn 266 tàu cá chưa thực hiện việc cấp/cấp lại giấy phép khai thác thủy sản theo quy định, chiếm 10,70% tổng số tàu phải cấp phép. - Tình trạng tàu cá vi phạm vùng biển nước ngoài (vùng biển Trung Quốc) vẫn còn xảy ra. Việc xử lý vi phạm đối hành vi này còn hạn chế, mới chỉ nhắc nhở chưa áp dụng xử phạt theo Nghị định số 42/2019/NĐ-CP để răn đe, giáo dục (theo Thông báo của Bộ tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam, tỉnh Nghệ An hiện có 13 tàu cá vi phạm vùng biển Trung Quốc). - Vẫn còn tàu cá mất kết nối thiết bị GSHT, đặc biệt là tàu cá mất kết nối trên 10 ngày. Tuy nhiên kết quả xử lý còn rất hạn chế, chưa xử lý đến cùng của vấn đề, mới chỉ dừng lại ở mức độ nhắc nhở, yêu cầu chủ tàu khắc phục và cam kết duy trì hoạt động thiết bị VMS theo quy định (vẫn còn 32 trường hợp mất kết nối quá 10 ngày trên biển chưa xử lý, hiện tại UBND các xã/phường có tàu cá bị mất kết nối đang tiến hành xác minh làm rõ nguyên nhân để có căn cứ xử lý theo quy định). - Tình trạng vi phạm trong hoạt động khai thác thủy sản vẫn còn diễn ra như: tàng trữ công cụ kích điện trên tàu cá để khai thác thủy sản; thuyền viên, người làm việc trên tàu cá không có tên trong sổ danh bạ thuyền viên tàu cá, không mang theo giấy tờ tùy thân; viết số đăng ký tàu cá theo quy định .... - Tàu cá rời, cập cảng không thông báo trước 01 giờ vẫn diễn ra, nhật ký khai thác thiếu hoặc sai sót,... Việc xử lý tàu cá vi phạm theo Nghị định số 42/2019/NĐ-CP tại các Tổ Liên ngành còn rất khiêm tốn, chủ yếu nhắc nhở, cam kết không tái phạm. - Việc cập cảng cá chỉ định để bốc dỡ sản lượng chưa được các chủ tàu, thuyền trưởng thực hiện nghiêm túc, dẫn tới tỷ lệ sản lượng được giám sát qua cảng đạt rất thấp so với sản lượng khai thác được trên địa bàn 2.2. Nguyên nhân - Tình trạng phủ sóng vệ tinh kết nối thiết bị VMS chưa ổn định. Thiết bị Movimar được cấp đã qua sử dụng nên trong quá trình hoạt động thường xuyên bị hỏng nhưng nhà cung cấp không có linh kiện thay thế và sửa chữa. Bên cạnh đó, có một số ngư dân không nạp cước phí thuê bao nên bị cắt dịch vụ duy trì tín hiệu. - Một số tàu cá đã được các đơn vị đăng kiểm khác cấp giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật nhưng không cập nhật lên hệ thống Vnfishbase nên không có dữ liệu báo cáo; các tàu cá không làm đăng kiểm, cấp phép do hoạt động khai thác thủy sản không hiệu quả, một số tàu không có đủ thuyền viên đi khai thác nên nằm bờ, chờ bán. - Một số nghề khai thác không hiệu quả nên ngư dân chuyển đổi sang các nghề khác nhưng không làm thủ tục cải hoán tàu cá. - Hiện tại Chi cục Thủy sản không đủ điều kiện để thực hiện công tác đăng kiểm tàu cá theo quy định. - Vì lợi ích kinh tế, một số chủ tàu, thuyền trưởng vẫn cố tình vi phạm khai thác hải sản trái phép ở vùng biển nước ngoài. Công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật của ngư dân còn hạn chế. Việc tìm chứng cứ, thông tin đối với hành vi vi phạm vùng biển nước ngoài còn khó khăn dẫn đến việc xử lý hành vi này rất khó thực hiện. - Ý thức của chủ tàu cá, thuyền trưởng còn hạn chế trong việc lắp đặt, vận hành thiết bị GSHT; một số tàu cá hoạt động không hiệu quả nên chủ tàu chưa có kinh phí để lắp thiết bị GSHT. - Lực lượng thực thi pháp luật tại cảng cá (Tổ Liên ngành, Trạm BP, Chính quyền địa phương) chưa cương quyết xử lý các hành vi vi phạm về IUU dẫn đến tình trạng vi phạm kéo dài, không xử lý dứt điểm để làm gương. Cùng với đó, việc xác định rõ nguyên nhân tàu mất kết nối còn gặp khó khăn; căn cứ pháp lý để xử lý các vi phạm chưa rõ ràng. - Công tác tuần tra, kiểm tra giám sát tại cửa lạch, trên biển thực hiện chưa thường xuyên, liên tục. - Tại một số địa phương (xã Quỳnh Lập, Quỳnh Nghĩa, Sơn Hải...), có số lượng lớn tàu cá khai thác vùng khơi nhưng không có cảng cá chỉ định nên ngư dân thường cập bến cá tự phát để bốc dỡ hàng hóa, sản phẩm thủy sản, do đó việc kiểm soát, giám sát sản lượng từ khai thác gặp khó khăn. Cơ sở hạ tầng cảng cá, bến cá còn thiếu, các cửa lạch bị bồi lắng, tàu thuyền ra vào gặp nhiều khó khăn, không đảm bảo an toàn. - Sự vào cuộc của chính quyền địa phương chưa thực sự quyết liệt; chưa làm tốt công tác tuyên truyền, vận động ngư dân không vi phạm khai thác IUU.
IV. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM THÁNG 5/2023 1. Tiếp tục quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm, có kết quả các nhiệm vụ được giao theo chỉ đạo của: Thường trực Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ, Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về IUU và các chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về triển khai thực hiện các giải pháp chống khai thác IUU, gỡ cảnh báo ”Thẻ vàng” của EC. 3. Triển khai thực hiện các nội dung tại Quyết định số 81/QĐ-TTg ngày 13/02/2023 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động chống khai thác IUU, chuẩn bị làm việc với Đoàn thanh tra của Ủy ban Châu Âu lần thứ 4. 4. Thực hiện nghiêm túc các nội dung tại Quyết định số 1568/QĐ-BNN-TCTS ngày 18/4/2023 của Bộ Nông nghiệp và PTNT về việc phê duyệt Kế hoạch tổng thể và kịch bản đón và làm việc với đoàn thanh tra EC lần 4 về chống khai thác bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU). 5. Thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả các nhiệm vụ được giao tại Kế hoạch số 121/KH-UBND ngày 01/3/2023 về kế hoạch hành động chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định trên địa bàn tỉnh Nghệ An, chuẩn bị làm việc với Đoàn thanh tra của Ủy ban Châu Âu lần thứ 4, cụ thể: - Đẩy mạnh, đa dạng các hình thức tuyên truyền tập huấn, phổ biến các quy định của pháp luật thủy sản và chống khai thác IUU, đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời về chống khai thác IUU đến với cộng đồng ngư dân và các thành phần liên quan. -Đôn đốc chỉ đạo quyết liệt hoàn thành việc lắp đặt thiết bị giám sát hành trình trên tàu cá, thực hiện đăng ký, đăng kiểm, cấp giấy phép khai thác thủy sản, giấy chứng nhận an toàn thực phẩm cho tàu cá theo quy định; thường xuyên rà soát, thống kê và cập nhật số lượng tàu cá địa phương vào cơ sở dữ liệu nghề cá quốc gia VNFishbase; Tổ chức khai thác, vận hành, trực theo dõi 24/24 hệ thống giám sát tàu cá hoạt động trên biển. - Kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ tàu cá cập cảng, rời cảng theo quy định, nâng cao chất lượng công tác giám sát sản lượng thủy sản bốc dỡ thủy sản qua cảng; xử lý nghiêm đối với tàu cá chưa đủ điều kiện theo quy định. -Theo dõi, lập danh sách các tàu cá có nguy cơ cao vi phạm khai thác IUU, Phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương để theo dõi, kiểm soát và xử lý tàu cá của tỉnh hoạt động trên địa bàn của tỉnh khác để ngăn chặn, xử lý kịp thời hành vi khai thác IUU. - Tập trung nguồn lực đảm bảo ngăn chặn, chấm dứt tàu cá Nghệ An khai thác hải sản bất hợp pháp ở vùng biển nước ngoài; Điều tra, xử phạt 100% các trường hợp tàu cá Nghệ An vi phạm khai thác hải sản bất hợp pháp ở vùng biển nước ngoài và thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng. - Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương mở các đợt cao điểm tuần tra, kiểm tra, kiểm soát hoạt động tàu cá trên biển và xử phạt 100% hành vi khai thác IUU theo quy định; Xác minh, xử lý 100% các tàu cá không duy trì kết nối thiết bị giám sát hành trình theo quy định. -Tiếp tục tham mưu kịp thời, hoàn thiện “Nghị quyết về chính sách hỗ trợ cho tàu cá khai thác thủy sản vùng khơi trên địa bàn tỉnh Nghệ An” trình Hội đồng nhân dân tỉnh. V. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ Để thực hiện nhiệm vụ chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định có hiệu quả trong thời gian tới, Sở Nông nghiệp và PTNT kiến nghịmột số nội dung: 1. Bộ Nông nghiệp và PTNT - Chỉ đạo các đơn vị nâng cao chất lượng thiết bị và tín hiệu giám sát tàu cá. Xử lý nghiêm các đơn vị cung cấp thiết bị giám sát hành trình, tín hiệu kết nối không đảm bảo theo quy định. - Yêu cầu các đơn vị đăng kiểm cập nhật dữ liệu đăng kiểm tàu cá lên hệ thống Vnfishbase nhằm đảm bảo theo dõi đánh giá đúng thực tế. 2. UBND tỉnh Nghệ An Sớm thông qua Đề án thành lập Chi cục Thủy sản và Kiểm ngư trên cơ sở tổ chức lại Chi cục Thủy sản, trong đó thành lập phòng Kiểm ngư, thanh tra và Trung tâm Đăng kiểm tàu cá nhằm đáp ứng đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ theo quy định hiện hành. Trên đây là báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định trên địa bàn tỉnh Nghệ An trong tháng 4/2023./.